Danh mục

Gốm Việt Nam - Dấu ấn của nền văn hóa thuần Việt

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 143.96 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghề gốm ở Việt Nam đã có từ thời tiền sử, thời kỳ đồ đồng... nhưng phát triển rực rỡ nhất ở thời Lý Trần (thế kỷ XI-XV). Là một trong những nơi có kỹ nghệ gốm phát triển sớm ở Châu á, các sản phẩm gốm được tìm thấy trong nhiều di chỉ văn hoá như: Hoà Bình, Bắc Sơn, Hạ Long cho đến hậu kỳ đồ đá mới Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun... Trải qua những giai đoạn phát triển của lịch sử, các sản phẩm gốm ngày càng đạt đến trình độ và kỹ thuật thẩm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Gốm Việt Nam - Dấu ấn của nền văn hóa thuần Việt Gốm Việt Nam - Dấu ấn của nền văn hóa thuần Việt Nghề gốm ở Việt Nam đã có từ thời tiền sử, thời kỳ đồ đồng... nhưng phát triển rực rỡ nhất ở thời Lý Trần (thế kỷ XI-XV). Là một trong những nơi có kỹ nghệ gốm phát triển sớm ở Châu á, các sản phẩm gốm được tìm thấy trong nhiều di chỉ văn hoá như: Hoà Bình, Bắc Sơn, Hạ Long cho đến hậu kỳ đồ đá mới Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun... Trải qua những giai đoạn phát triển của lịch sử, các sản phẩm gốm ngày càng đạt đến trình độ và kỹ thuật thẩm mỹ cao, được thể hiện ở ba loại: gốm men trắng ngà chạm đắp nổi, gốm hoa nâu, gốm men ngọc. Với những thành tựu như vậy, có thể thấy rằng, gốm Việt Nam không thua kém gốm nước ngoài về giá trị niên đại và giá trị nghệ thuật. Gốm trong đời sống con người Gốm rất gần gũi với con người. Từ xa xưa, người ta đã coi đó là thứ đồ dùng hàng ngày đồng thời là thứ đồ có giá trị hay dùng để trang trí... Gốm có ở bất kỳ đâu từ chốn cung đình lộng lẫy đến mỗi ngôi nhà dân dã. Đối với người dân thường, chum, vại, chậu, bình... dùng để chứa nước, trồng cây, muối dưa cà. Còn đối với vua chúa hay hàng quan lại trong triều thì gốm làm công phu hơn rất nhiều và ngoài những tác dụng vốn có, dưới bàn tay tài hoa của người thợ, gốm biến thành những thứ đồ trang trí quý giá. Cho tới nay, mặc dù có hàng trăm, hàng nghìn loại sản phẩm mới được sản xuất, phục vụ cho đời sống của con người nhưng đồ gốm vẫn luôn hiện diện trong hầu hết các gia đình người Việt. Đó chính là lý do mà các lò gốm tồn tại và ngày càng phát triển. Với bàn tay khối óc, con mắt nghệ thuật tinh tế cộng với sự nỗ lực, người thợ đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật bằng gốm không những thể hiện được tinh hoa văn hoá dân tộc từ bao đời truyền lại mà còn thổi vào gốm cái hồn riêng sống động. Nghề gốm ở Việt Nam trải khắp trên mọi miền đất nước, miền Bắc có gốm Bát Tràng (Hà Nội); gốm Đông Triều (Quảng Ninh); gốm Thổ Hà, Phù Lãng (Bắc Ninh); gốm Hương Canh (Vĩnh Phúc); Lò Chum (Thanh Hóa)... ở miền Trung có gốm ở làng Bầu Trúc (Ninh Thuận); miền Nam có gốm Sài Gòn, gốm Bình Dương, gốm Biên Hòa (Đồng Nai)... Sản phẩm gốm của Việt Nam rất phong phú, từ những vật nhỏ như lọ đựng tăm, bát, đĩa... những sản phẩm cỡ trung bình như lọ hoa, tượng phật, thiếu nữ, bộ ấm trà, chậu cảnh đến những sản phẩm cỡ lớn như lọ độc bình, đôn voi, chum, choé... Tuy gốm hiện đại cũng có một số nét thay đổi nhưng về cơ bản vẫn giữ được truyền thống và linh hồn của gốm xưa. Có thể coi gốm là dấu ấn của nền văn minh lúa nước, nền văn hóa thuần Việt. Một số loại gốm tiêu biểu Gốm đất nung Đó là một số loại điển hình như: Gốm Phùng Nguyên, Gốm Đồng Đậu, Gốm Gò Mun... Giai đoạn Phùng Nguyên tồn tại vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ II trước CN (công nguyên). Gốm Phùng Nguyên có những nét khắc tinh xảo, chủ yếu là hoa văn răng lược, khắc vạch, làn sóng, một số thiên về lối hình học. Tổ tiên của chúng ta đã biết dùng màu đất trắng và màu đá son tô thắm lên bề mặt hình khắc của gốm trước khi nung, đã biết nung độ lửa già nhất của đất nung. Giai đoạn Đồng Đậu ở vào khoảng nửa sau thiên niên kỷ II trước CN. Gốm Đồng Đậu có hoa văn đa dạng: xoắn ốc, răng cưa, đường chấm song song, hình trám in... Giai đoạn Gò Mun tồn tại vào nửa đầu thiên niên kỷ I trước CN. Gốm Gò Mun có nhiều hoa văn hình học. Nhiều hoa văn bắt chước hoa văn trên đồ đồng. Gốm Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun không chỉ phong phú về hoa văn, mà còn phong phú về hình dáng. Nhiều hình dáng cho đến sau này vẫn còn được bảo tồn trong các lò gốm dân gian, như: loại vò có miệng loe đứng, cổ cao, bụng nở (Đồng Đậu); loại vò, nồi có miệng loe rộng, cổ ngắn, bụng nở (Đồng Đậu); bát, bình, cốc, ống nhổ chân thấp, chân cao (Phùng Nguyên)... Trong thời đại đồng thau phát triển rực rỡ, gốm đất nung trang trí ngày một công phu và có xu hướng bắt chước đồ đồng, nhất là về mặt hoa văn. Điều đó khẳng định rằng nghệ thuật dân gian đã tồn tại và phát triển từ trong cuộc sống của quần chúng, thường được thể hiện rộng rãi từ những chất liệu, đồ dùng thông thường nhất (như đồ mây tre tiếp đến là đồ đất nung). Vì thế, nghệ thuật đất nung bắt chước nghệ thuật đồ đồng, không hề làm giảm mà ngược lại còn làm sáng tỏ thêm phong cách nghệ thuật đồ đồng cùng thời. Gốm hoa nâu Theo các nhà nghiên cứu, gốm hoa nâu có từ trước thế kỷ XI, ra đời cùng với gốm men da lươn. Gốm hoa nâu, thường thuộc loại sành xốp, men ngà bóng, hoa văn màu nâu. Hoa được khắc vạch trên xương đất ướt trước khi tô màu. Cũng có loại nền nâu, hoa văn trắng. Dần về sau, gốm hoa nâu được thể hiện theo nhiều kỹ thuật khác nhau, nhưng căn bản vẫn là những chất liệu: men tro, đá son, đá thối hoặc rỉ sắt, hoàn toàn giống nguyên liệu của gốm men da lươn. Đặc điểm phong cách của gốm hoa nâu là hình dáng đầy đặn, chắc khỏe, phù hợp với lối khắc, lối tô mảng to mảng nhỏ sâu nông tùy ý. Đề ...

Tài liệu được xem nhiều: