Danh mục

GỐM VIỆT NAM THỜI LÝ ĐẾN HIỆN ĐẠI (phát hiện Hoàng Thành Thăng Long nhìn lại lịch sử phát triển)

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 191.72 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Với quá trình phát triển nghệ thuật Gốm cổ truyền Việt Nam, có kinh nghiệm tích luỹ lâu đời. Đến thời Lý thế kỷ XI-XII nghề gốm rất phát triển. Các nghệ nhân Gốm thời Lý phát huy sáng tạo, thúc đẩy nghề làm Gốm. Đã đạt tới trình độ khéo léo và tài nghệ cao cả về kỹ thuật lẫn nghệ thuật. Trong cuốn Đồ gốm Nhật Bản (La Céramique Japonaise) nhà xuất bản Leroux- Paris năm 1983, tác giả Oueda Tokonosouké cũng đã nói: Nhật Bản có nhiều thợ gốm giỏi bắt chước làm theo đồ gốm cổ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GỐM VIỆT NAM THỜI LÝ ĐẾN HIỆN ĐẠI (phát hiện Hoàng Thành Thăng Long nhìn lại lịch sử phát triển) GỐM VIỆT NAM TỪ THỜI LÝ ĐẾN HIỆN ĐẠI (phát hiện Hoàng Thành Thăng Long nhìn lại lịch sử phát triển) Với quá trình phát triển nghệ thuật Gốm cổ truyền Việt Nam, có kinh nghiệm tích luỹ lâu đời. Đến thời Lý thế kỷ XI-XII nghề gốm rất phát triển. Các nghệ nhân Gốm thời Lý phát huy sáng tạo, thúc đẩy nghề làm Gốm. Đã đạt tới trình độ khéo léo và tài nghệ cao cả về kỹ thuật lẫn nghệ thuật. Trong cuốn Đồ gốm Nhật Bản (La Céramique Japonaise) nhà xuất bản Leroux- Paris năm 1983, tác giả Oueda Tokonosouké cũng đã nói: Nhật Bản có nhiều thợ gốm giỏi bắt chước làm theo đồ gốm cổ Việt Nam (gọi là gốm Giao Chỉ - Kotchi). Những trung tâm sản xuất gốm thời Lý thường ở nơi thị dân, hay dọc ven sông có sẵn nguyên liệu sản xuất, lại thuận tiện chuyên chở tiêu thụ như: Thăng Long (cùng một số vùng phụ cận như Bát Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng), và Thanh Hoá... Đồ gốm với các chủng loại như: Gốm gia dụng có các loại bát, đĩa, ấm, chén, bình, liễn, cóng, chum, vại, thạp. Đồ gốm loại này phần lớn có tráng men, biểu hiện một trình độ cao. Nhiều sản phẩm gốm quý và đẹp. Gốm ở Thăng Long và Thanh Hoá có nhiều nét độc đáo như gốm Men Ngọc rất quý. Loại này chất đất được lọc kỹ, xương gốm mịn, rắn chắc và nặng, được phủ lớp men dày có màu xanh dịu trong bóng trông giống như ngọc (nên gọi là men ngọc). Đồ gốm Men Ngọc của ta được ca tụng, (và thường so sánh với gốm Long Tuyền thời Tống của Trung Quốc). Những hiện vật gốm Men Ngọc còn nguyên vẹn, hiện nay còn sưu tập được có các hoa văn trang trí theo lối in khuôn nổi hoặc chìm. Nắp hộp men xanh lcj thời LÝ, trang trí nổi hình rồng và vân như ý, dk 18.5cm Các họa tiết trên gốm đất nung thời Lý phong phú, như: về hình người có: Vũ nữ đất nung (như ở chùa Dạm, Phật Tích, Long Đội sơn...). Đặc biệt hình tượng các con vật (Rồng, Phượng, cá, chim, hổ), đến các hình: Hoa lá (hoa sen, hoa cúc, hoa Phù Dung, lá đề), Sóng nước: sóng hình sin hay sóng ba lớp chồng nhau như ba ngọn núi (còn gọi là sóng tam sơn)... Tất cả đều được đơn giản hoá, tạo những nét giản dị. Đồ gốm dân gian: kiểu thức phóng khoáng, chất đất thô hơn gốm men ngọc. Cốt gốm dầy, bên ngoài phủ lớp men mỏng màu nâu hoặc trắng ngà. Các hình vẽ, khắc trước phủ men sau. Đường nét trang trí giản dị mộc mạc mà sinh động. Gốm xây dựng, Gốm trang trí kiến trúc phát triển đáp ứng xây dựng kiến trúc cung đình của vương triều, đền đài lăng tẩm, các kiến trúc Đền, Chùa, hoặc nhà cửa dân dụng. Sản phẩm Gốm xây dựng là: gạch xây, ngói lợp, ngói bò ốp trên bờ nóc, ngói đầu mái, hoặc gạch trang trí. Gạch có hình hoa văn trang trí lát nền, hoặc trang trí bề mặt tường trong các kiến trúc cung điện, chùa tháp. Có nhiều loại gạch ngói với hình dáng kích thước khác nhau, những hoa văn trang trí phong phú. Những hình Rồng, Phượng, hoa lá khắc chìm hoặc đắp nổi trên bề mặt gạch. Trên mặt tròn đầu mũi ngói ống ấn nổi hình hoa sen, hoa cúc, hoa thị, có khi hình mặt con thú, hổ phù. Những trang trí trên mặt gạch đã áp dụng lối in khuôn dập lên mặt gạch khi đất còn mềm trước khi để khô và nung. Bố cục thường có đường chỉ gờ viền chung quanh trong các bố cục như (hình vuông, chữ nhật, hình tròn, hình lá đề, hình đa giác). Bên trong các hình đó có chạm các: hình hoa sen, hoa cúc dây, hoa thị, hay hình Rồng, Phượng uốn lượn. Sự xắp xếp theo bố cục trang trí đăng đối, đối xứng. Có những bố cục trang trí to rộng, gắn ghép gốm với nhau. Có những gốm đất nung được đắp, nặn, chạm trổ to, để gắn trên bờ nóc, diềm mái, đầu đao. Những gốm lớn gắn vào kiến trúc có hình chim Phượng, hình Rồng uốn mình chầu ngọc. Có những đầu Rồng có mào bờm uốn lượn, hình chim Phượng mỏ dài quặp lại, có mào, hai cánh uốn cong (để gắn trên đầu bờ nóc hay đầu đao). Gốm loại này thường đa dạng, đáp ứng tính chất trang trí phức tạp và đa dạng của các loại công trình kiến trúc Chùa, tháp, cung điện, lầu các, to nhỏ lớn bé các loại. Gốm thời này có độ nung già để mộc nên có màu của đất nung đỏ gạch tươi, hoặc đỏ nghệ. Tuy bằng đất nung thô sơ, thậm chí to nặng nhưng khi kết hợp gắn kết vào kiến trúc, tạo thành những nét cong mềm mại, hài hoà trong độ dốc, độ cao, đường cong của đầu đao, bờ mái, mang nét đẹp độc đáo của kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Gốm thời Trần (thế kỷ XIII-XIV) tiếp tục phát triển trên cơ sở truyền thống thời Lý với nhiều loại phong phú mang tính dân tộc và phong cách của thời Trần. Gốm gia dụng và Gốm trang trí kiến trúc được chế tạo khác thời Lý. Các lò gốm có thêm như ở Phủ Thiên Trường (Nam Định), nổi bật là gốm Hoa Nâu. Gốm gia dụng phủ men có ba loại: 1, Gốm Men Ngọc tạo dáng chắc khoẻ, cân đối, men dầy, dùng men chảy không đều, đôi khi còn ngấn đọng thành giọt. Hoa văn ấn hoặc đắp nổi, các họa tiết trang trí là: hoa sen, hoa cúc, hoa văn hình xoắn ốc. Các loại bát đĩa hình dáng hơi thô, trang trí sơ sài và để trơn. Lớp men màu vàng nhạt, màu da lươn, hay nâu thường phủ mỏng phục vụ đối tượng rộng rãi. Song cũng có những gốm Men Ngọc chế tác công phu phục vụ tầng lớp vua, quan, quý tộc. ở thời Trần trên gốm có chữ viết dưới trôn để mộc như “Thiên Trường phủ chế”, hoặc bôi nâu ở trôn đế. 2, Gốm Hoa Nâu: dân dụng, kiểu dáng to khoẻ, cốt gốm dày, thô xốp hơn gốm men ngọc, phủ lớp men trắng ngà hay vàng nhạt. Có nhiều loại, cỡ khác nhau, thường to mập, có thể tích chứa đựng lớn như các loại: thạp (thạp gốm lớn ở Nam Định, Thanh Hoá). Các loại liễn dáng cao, thân thẳng, miệng hơi thu nhỏ, vai bằng và chung quanh vai đắp nổi cách sen tròn mập, có bốn núm tai ngang, chạy quanh miệng và chân liễn khắc vẽ hoa thảo cách điệu. Thân liễn vẽ năm con chim. Có các loại liễn thấp thành, chân đế chạm thủng. Vòng quanh vai và chân liễn đắp nổi hình vòng cánh hoa sen. Hoặc có Liễn trên thân chia ô trang trí xen kẽ. Các loại chậu, liễn có khắc vẽ các hình: hoa thảo, chim, cá, tôm nét vẽ đơn giản nhưng linh hoạt. Các loại bình, ấm: Hoa văn vẽ thành đường viền, dùng màu nâu t ...

Tài liệu được xem nhiều: