Kiếm Nhật hay Katana (tiếng Nhật: 刀 Đao) là loại kiếm dài, hình hơi cong, một lưỡi, rất bén được các võ sĩ Nhật trọng dụng và luôn đeo trên thắt lưng - thường có cặp với một thanh kiếm ngắn hơn, hoặc cực ngắn gọi là Đoản Đao (短刀). Bộ kiếm đôi gọi là Đại Tiểu (大小) - biểu tượng cho tác phong và danh dự của người võ sĩ. Thanh kiếm dài Katana dùng để chém trong tác chiến. Kiếm ngắn để đâm khi đến gần đối phương - hoặc để mổ bụng tự sát (một kỹ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Gươm Nhật Gươm NhậtKiếm Nhật hay Katana (tiếng Nhật: 刀 Đao) là lo ại kiếm dài, hình hơi cong, một lưỡi,rất bén được các võ sĩ Nhật trọng dụng và luôn đeo trên thắt lưng - thường có cặp với mộtthanh kiếm ngắn hơn, hoặc cực ngắn gọi là Đoản Đao (短刀). Bộ kiếm đôi gọi là Đại -Tiểu (大小) - biểu tượng cho tác phong và danh dự của người võ sĩ. Thanh kiếm dàiKatana dùng để chém trong tác chiến. Kiếm ngắn để đâm khi đến gần đối phương - hoặcđể mổ bụng tự sát (một kỹ thuật tự sát của samurai, mang tên seppuku).Kiếm Katana có chuôi dài đủ để người sử dụng dùng hai bàn tay nắm chặt. Theo truyềnthống, kiếm được đeo với lưỡi quay lên phía trên, (chiều cong hướng lên trên, ngược vớicách đeo kiếm Tây Âu). Ngày nay tuy không còn được sử dụng trong chiến tranh, kiếmNhật vẫn được giới sưu tầm yêu chuộng - loại kiếm cổ rất mắc tiền; và nghệ thuật tácchiến bằng kiếm Nhật vẫn còn được lưu truyền trong một số thể thao võ thuật Nhật Bản,như môn Kendo (Kiếm đạo), Kenjutsu (Kiếm thuật), Battojutsu (Bạt đao thuật). 太刀: Thái Đao 刀: Bộ Song Đao 短刀:Đoản Đao Chi tiết chạm trổ chuôi và đai kiếmMục lục[ẩn] 1 Lịch sử 1.1 Những câu chuyện lưu truyền o 2 Rèn kiếm (kitaeru) 3 Mài kiếm 4 Bao kiếm 5 Tham khảo 6 Liên kết ngoài [sửa] Lịch sửTheo định nghĩa của người Nhật thì vũ khí mà chúng ta gọi là kiếm Nhật được gọi dướicái tên katana tức là đao (theo chữ Hán) nhưng thường được hiểu là trường kiếm. Ngoàikatana, người Nhật cũng còn tachi, nodachi cũng là một loại kiếm dài, wakizashi là mộtloại đoản kiếm, aikuchi và tanto là những loại kiếm ngắn giống như dao găm hay chủythủ. Có khi thanh tanto được người phụ nữ, người vợ của các samurai Nhật Bản sử dụngđể bảo toàn danh tiết.Người Nhật đã có một truyền thống rèn kiếm lâu đời. Kiếm, ngọc và gương là ba [bảo vậttruyền quốc], được coi như biểu chương của hoàng gia (imperial regalia), thờ tại đền ởIse gần hoàng cung cũ ở cựu đô Nara cũng là những linh vật trong thần đạo (shinto).Ngay từ thời đại Kofun và Nara (300-794) đầu Công nguyên, nước Nhật đã sử dụngkiếm, hồi đó lưỡi kiếm thẳng và dài chừng 80 cm theo mẫu mực của Trung Hoa và TriềuTiên. Đến thế kỷ 8, đầu thế kỷ 9 người Nhật bắt đầu đúc kiếm có hình cong ở gần cán rồidần dần cong hoàn toàn.Thời đại Heian sau đó (794-1185), nước Nhật bước vào một thời kỳ văn hoá khá rực rỡ.Xã hội nhiều giai cấp trong đó giới võ sĩ (samurai), giới tăng nhân ( warrior monks) trởthành những lực lượng quan trọng được triều đình thuê mướn để bảo vệ lãnh thổ. Thanhkiếm đã không chỉ là một võ khí mà đã trở thành một tác phẩm, vừa thanh tú vừa mỹthuật.Người ta cũng bắt đầu khắc tên và nơi chế tạo trên chuôi kiếm, hiệp sĩ cũng mang theonhững thanh kiếm ngắn hơn để thay đổi. Ngoài kiếm nhiều loại chiến cụ khác cũng pháttriển điển hình là cung tên, giáp trụ và nghệ thuật binh bị cũng đạt một tầm vóc mới.Người Nhật tìm ra cách đúc kiếm nhiều lớp bằng cách rèn dài và mỏng phôi sắt sau đócắt đôi, nung lên rồi chập hai nửa lại tiếp tục rèn, tạo được những vân thớ (jihada) khác lạđược gọi dưới những tên như itame, masame, mokume, ayasugi (long tuyền đối nguyệt),khiến những lưỡi kiếm cấu thành từ rất nhiều lớp thép, vừa dẻo dai vừa cứng rắn. Nhữngvân đó có khi giống như mắt gỗ nhưng cũng có khi uốn lượn như làn sóng. Thanh kiếmkhông còn là một vũ khí mà đã thành một tác phẩm mỹ thuật.[[Tập tin:Samurai.jpg|nhỏ|phải|300px|Võ sĩ Nhật trong bộ giáp đi trận và đôi gươm - doFelice Beato chụp (khoảng 1860) Các thợ rèn thuộc tỉnh Soshu tìm ra được cách pha trộnthép mềm với thép cứng để làm lưỡi kiếm, vẫn sắc bén mà lại ít bị mẻ. Họ cũng tiêuchuẩn hoá chiều dài và cải thiện mũi kiếm để khi kiếm bị gãy vẫn có thể mài và dùngtiếp. Trước kia kiếm Nhật chỉ uốn cong nơi gần cán nay từ từ cong đều và cũng thuôndần ra tới tận mũi. Người Nhật cũng chế tạo loại giáp trụ nhẹ hơn để bộ binh dễ di động,dễ phân tán đồng thời nghiên cứu cách dùng kiếm đánh cận chiến thay vì dùng cung bắntừ xa.Phong tục cổ truyền của Nhật Bản là khi gia đình sinh một đứa con trai, mỗi người dânlàng sẽ đến mừng cho quý tử một ít mạt sắt. Sắt đó sau này, khi cậu bé trưởng thành, sẽđược một kiếm sư rèn thành kiếm cho cậu. Trước khi rèn một thanh kiếm, bao giờ kiếmsư cũng trai giới, cầu xin thần linh phù hộ và sau đó mặc lễ phục để làm việc. Người tanói rằng kiếm sư rèn kiếm không còn là một công việc mà là một nghi lễ, thân tâm hợpnhất và tập trung toàn bộ tinh thần từ khi bắt đầu cho tới khi ho àn tất.Thời kỳ nước Nhật chia thành hai gọi là Nam Bắc triều (1333-1393). Thời kỳ này đánhdấu cao điểm của thuật đúc kiếm. Lưỡi kiếm bây giờ dài đến 1 mét gọi là no-dachi vàkiếm đúc cho đền đài có khi còn dài hơn. Kiếm dài có lợi thế cho người đi bộ và chiếnđấu trong đêm tối nên thường đeo sau lưng và rút ngược lên qua vai.Khi ra ngoài người ta đeo trường kiếm (katana) và đoản kiếm (wakizashi) nhưng khi ởtrong nhà thì chỉ đeo đoản kiếm và được tháo ra đặt ngay cạnh giường khi đi ngủ. Đối vớingười võ sĩ, thanh kiếm là vật bất ly thân, không rời xa trong bất cứ trường hợp nào.[sửa] Những câu chuyện lưu truyềnNgười Âu châu đã vô cùng kinh ngạc khi thấy kiếm Nhật hơn hẳn các lưỡi kiếm củangười Tây Ban Nha nổi tiếng ở Âu Châu. Bộ đại từ điển Britannica của Anh (in lần thứ6), quyển 9 trang 37 viết là kiếm Nhật có thể chặt đứt một chiếc đinh lớn mà lưỡi kiếmkhông hề hấn gì. Trong lịch sử chiến tranh Trung-Nhật, có sĩ quan Nhật đã từng dùngthanh kiếm chém hàng rào thép gai dễ dàng như chém chuối.[sửa] Rèn kiếm (kitaeru)Kitaeru được coi như một trong những truyền thống cần phải bảo tồn cùng với nhiều bộmôn nghệ thuật khác để duy trì tinh thần đặc thù của người Nhật. Lẽ dĩ nhiên rèn khôngphải nói về nghề thợ rèn một cách tổng quát mà là kỹ thuật rèn kiếm, một truyền thốnglâu đời được coi trọng, vì thanh kiếm khô ...