Hàm lượng cadimi (cd) và chì (pb)trong trầm tích và trong sinh vật (vẹm xanh perna viridis linnaeus và hàu crassostrea gigas thunberg) tại Vũng Thùng, Đà Nẵng
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 1,019.72 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đối với kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng trong Hàu và Vẹm xanh cho thấy, hầu hết hàm lượng Cd trong các mẫu động vật đều thấp hơn tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế (≤ 2mg/kg trầm tích), tuy nhiên, hàm lượng Pb trong động vật đã vượt tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế (≤ 1,5mg/kg trọng lượng tươi; QCVN 8-2:2011/BYT) từ 2,21 đến 2,56 lần đối với loài Hàu; vượt 1,01 đến 3,28 lần đối với loài Vẹm xanh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hàm lượng cadimi (cd) và chì (pb)trong trầm tích và trong sinh vật (vẹm xanh perna viridis linnaeus và hàu crassostrea gigas thunberg) tại Vũng Thùng, Đà NẵngTạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 1; 2013: 80-87ISSN: 1859-3097http://www.vjs.ac.vn/index.php/jmstHÀM LƯỢNG CADIMI (CD) VÀ CHÌ (PB)TRONGTRẦM TÍCH VÀ TRONG SINH VẬT (VẸM XANHPERNA VIRIDIS LINNAEUS VÀ HÀU CRASSOSTREAGIGAS THUNBERG) TẠI VŨNG THÙNG, ĐÀ NẴNGNguyễn Văn Khánh1, Võ Văn Minh1, Trần Duy Vinh21Trường Đại học Sư phạm- Đại học Đà Nẵng2Đại học Okayama, Nhật BảnĐịa chỉ: Nguyễn Văn Khánh, Trường Đại học Sư phạm,459 Tôn Đức Thắng, Liên Chiểu, Đà Nẵng, Việt Nam. E-mail: vankhanhsk23@gmail.comNgày nhận bài: 12-3-2012TÓM TẮTQua 2 đợt thu mẫu (tháng 3/2011 và tháng 8/2011), kết quả phân tích trầm tích về hàm lượng Cd và Pb tại khu vựcVũng Thùng (Đà Nẵng) cho thấy đã xuất hiện dấu hiệu nhiễm bẩn Cd và Pb tại một số khu vực. Cụ thể, hàm lượng Cddao động từ 0,54 - 1,58mg/kg (trọng lượng khô), một số mẫu vượt TEL (0,7mg/kg trọng lượng khô) từ 1,23 đến 2,26lần; hàm lượng Pb dao động từ 18,37 - 87,29mg/kg (trọng lượng khô), đa số các mẫu đều vượt TEL (≤ 30,2mg/kg trầmtích) từ 1,13 đến 2,74 lần.Đối với kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng trong Hàu và Vẹm xanh cho thấy, hầu hết hàm lượng Cd trongcác mẫu động vật đều thấp hơn tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế (≤ 2mg/kg trầm tích), tuy nhiên, hàm lượng Pb trongđộng vật đã vượt tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế (≤ 1,5mg/kg trọng lượng tươi; QCVN 8-2:2011/BYT) từ 2,21 đến2,56 lần đối với loài Hàu; vượt 1,01 đến 3,28 lần đối với loài Vẹm xanh.Kết quả phân tích tương quan so sánh, mức độ tương quan giữa hàm lượng Cd trong trầm tích và trong cả 2 loài làkhá thấp (tương quan yếu); tuy nhiên, hàm lượng Pb trong trầm tích tương quan tuyến tính chặt chẽ với hàm lượng Pbtrong Hàu và trong Vẹm xanh với hệ số lần lượt là 0,76 và 0,72. Điều này cho thấy, Hàu và Vẹm xanh có khả năng phảnánh mức độ ô nhiễm Pb trong môi trường biển.MỞ ĐẦUKim loại nặng (KLN) trong các thủy vực, chúngthường chủ yếu tồn tại ở dạng liên kết với các hạtkeo hoặc được sa lắng ở các lớp trầm tích, bùn đáy(chiếm từ 50 - 90% tổng hàm lượng kim loại), đều ởdạng bền vững và có xu hướng tích tụ trong trầmtích và trong sinh vật [8, 12].Kết quả nghiên cứu một số tác giả như Phillips(1977), Penny (1984), Samoiloff (1989), Fisher vàReinfelder (1995), Rainbow và cộng sự (2001) [11]80cho biết rằng các loài này có khả năng tích lũy KLNcao hơn rất nhiều lần trong môi trường chúng sinhsống. Thông qua việc phân tích hàm lượng KLNtrong mô và xác định mối quan hệ giữa hàm lượngKLN trong môi trường và trong mô động vật có thểđánh giá chất lượng môi trường nơi chúng sinh sống[5, 9]. Việc đánh giá khả năng tích lũy KLN củamột số loài nhuyễn thể đã được một số tác giảnghiên cứu [2, 6, 8]. Các đối tượng thường được sửdụng là Ngao dầu (Meretrix meretrix L.), Sò lông(Anadara subcrenata), Vẹm xanh (Perna viridisL.),Sò huyết (Anadara granosa)… Tuy nhiên, hầuhết các kết quả nghiên cứu chưa đánh giá mối tươngquan giữa hàm lượng KLN trong môi trường vàtrong các loài hai mảnh vỏ, từ đó đánh giá khả năngchỉ thị ô nhiễm KLN của các loài này.Khu vực Vũng Thùng, Tp. Đà Nẵng là nơi tiếpnhận các nguồn thải gây ô nhiễm như hoạt động củacảng biển, khai thác và chế biến thủy sản, hoạt độngvận tải của tàu thuyền và chất thải đô thị của thànhphố, ... Nguy cơ và tác động của KLN đến hệ sinhthái biển tại khu vực này là khá lớn. Kết quả nghiêncứu được trình bày trong bài báo này không chỉphân tích hàm lượng KLN trong trầm tích và sinhvật tại khu vực Vũng Thùng nhằm đánh giá chấtlượng môi trường mà còn cung cấp những dữ liệu vềkhả năng chỉ thị KLN của các loài Vẹm xanh vàHàu trong môi trường.TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁPQua khảo sát và thu thập thông tin ban đầu, loàiVẹm xanh (Perna viridis Linnaeus) và loài Hàu(Crassostrea gigas Thunberg) thuộc họ Veneridae,bộ Veneroidea, lớp Hai mảnh vỏ (Bivalvia), ngànhThân mềm (Mollusca) được khảo sát. Đây là nhữngloài có tần suất xuất hiện cao và có thể tiến hành thumẫu nhiều đợt trong năm. Mẫu động vật và mẫutrầm tích được thu đồng thời vào 2 đợt (tháng3/2011 và tháng 8/2011) tại 3 khu vực ở VũngThùng, Tp. Đà Nẵng: khu vực 1 gần cảng Tiên Sa(16o06’45,56”N, 108o14’09,32”E), nơi neo đậu vàqua lại của tàu thuyền; khu vực 2 nằm phía trongcầu Mân Quang (16o06’15,35”N, 108o14’27,98”E),nơi có sự xáo trộn mạnh bởi lưu lượng tàu thuyền ravào cảng cá; khu vực 3 thuộc khu vực cảng cá ThọQuang (16o05’45,99”N, 108o14’13,20”E) là nơithường tập trung tàu thuyền của ngư dân khai thácthủy sản (hình 1).Hình 1. Sơ đồ các địa điểm nghiên cứuMẫu trầm tích đuợc lấy ở độ sâu 0 - 15cm trênbề mặt đáy trầm tích. Mẫu được để khô tự nhiêntrong môi trường không khí ở nhiệt độ phòng, sauđó được nghiền và lọc mẫu qua rây có kích thước0,2mm, cân 5 gam mẫu khô và vô cơ hóa bằng axitHNO3 + HClO4 + H2O2 trên máy vô cơ hóa mẫu tựđộng VELP - DK6 [1].Mẫu động vật được bảo quản trong thùng lạnhở 40C. Sau khi được định loại hình thái động vậttheo tài liệu của [11], mẫu động vật được tách bỏphần ruột, nghiền nhỏ, sau đó cân 5 gam và vô cơhóa mẫu động vật bằng dung dịch HClO4 + HNO3đặc + H2O2 trên máy vô cơ hóa mẫu tự động VELPDK6 [1].81Hàm lượng Pb và Cd trong mẫu động vật vàtrầm tích được phân tích bằng phương pháp quangphổ hấp phụ nguyên tử (AAS) tại phòng Thí nghiệmPhân tích Môi trường khu vực II - Đài Khí tượngThủy văn Trung Trung bộ.Số liệu nghiên cứu được xử lý theo phươngpháp thống kê, so sánh các giá trị trung bình bằngphân tích phương sai (Anova), kiểm tra độ sai khácnhỏ nhất có ý nghĩa (LSD) với α = 0,05, phân tíchtương quan giữa các yếu tố với các giá trị đượcchuyển dạng theo công thức x’ = log10 (x+10).KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬNHàm lượng Pb và Cd trong trầm tíchKhả năng lắng đọng của các ion kim loại trướchết phụ thuộc vào các thông số địa hóa môi trườngcơ bản pH và Eh; bên cạnh đó thì các yếu tố ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hàm lượng cadimi (cd) và chì (pb)trong trầm tích và trong sinh vật (vẹm xanh perna viridis linnaeus và hàu crassostrea gigas thunberg) tại Vũng Thùng, Đà NẵngTạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 1; 2013: 80-87ISSN: 1859-3097http://www.vjs.ac.vn/index.php/jmstHÀM LƯỢNG CADIMI (CD) VÀ CHÌ (PB)TRONGTRẦM TÍCH VÀ TRONG SINH VẬT (VẸM XANHPERNA VIRIDIS LINNAEUS VÀ HÀU CRASSOSTREAGIGAS THUNBERG) TẠI VŨNG THÙNG, ĐÀ NẴNGNguyễn Văn Khánh1, Võ Văn Minh1, Trần Duy Vinh21Trường Đại học Sư phạm- Đại học Đà Nẵng2Đại học Okayama, Nhật BảnĐịa chỉ: Nguyễn Văn Khánh, Trường Đại học Sư phạm,459 Tôn Đức Thắng, Liên Chiểu, Đà Nẵng, Việt Nam. E-mail: vankhanhsk23@gmail.comNgày nhận bài: 12-3-2012TÓM TẮTQua 2 đợt thu mẫu (tháng 3/2011 và tháng 8/2011), kết quả phân tích trầm tích về hàm lượng Cd và Pb tại khu vựcVũng Thùng (Đà Nẵng) cho thấy đã xuất hiện dấu hiệu nhiễm bẩn Cd và Pb tại một số khu vực. Cụ thể, hàm lượng Cddao động từ 0,54 - 1,58mg/kg (trọng lượng khô), một số mẫu vượt TEL (0,7mg/kg trọng lượng khô) từ 1,23 đến 2,26lần; hàm lượng Pb dao động từ 18,37 - 87,29mg/kg (trọng lượng khô), đa số các mẫu đều vượt TEL (≤ 30,2mg/kg trầmtích) từ 1,13 đến 2,74 lần.Đối với kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng trong Hàu và Vẹm xanh cho thấy, hầu hết hàm lượng Cd trongcác mẫu động vật đều thấp hơn tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế (≤ 2mg/kg trầm tích), tuy nhiên, hàm lượng Pb trongđộng vật đã vượt tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế (≤ 1,5mg/kg trọng lượng tươi; QCVN 8-2:2011/BYT) từ 2,21 đến2,56 lần đối với loài Hàu; vượt 1,01 đến 3,28 lần đối với loài Vẹm xanh.Kết quả phân tích tương quan so sánh, mức độ tương quan giữa hàm lượng Cd trong trầm tích và trong cả 2 loài làkhá thấp (tương quan yếu); tuy nhiên, hàm lượng Pb trong trầm tích tương quan tuyến tính chặt chẽ với hàm lượng Pbtrong Hàu và trong Vẹm xanh với hệ số lần lượt là 0,76 và 0,72. Điều này cho thấy, Hàu và Vẹm xanh có khả năng phảnánh mức độ ô nhiễm Pb trong môi trường biển.MỞ ĐẦUKim loại nặng (KLN) trong các thủy vực, chúngthường chủ yếu tồn tại ở dạng liên kết với các hạtkeo hoặc được sa lắng ở các lớp trầm tích, bùn đáy(chiếm từ 50 - 90% tổng hàm lượng kim loại), đều ởdạng bền vững và có xu hướng tích tụ trong trầmtích và trong sinh vật [8, 12].Kết quả nghiên cứu một số tác giả như Phillips(1977), Penny (1984), Samoiloff (1989), Fisher vàReinfelder (1995), Rainbow và cộng sự (2001) [11]80cho biết rằng các loài này có khả năng tích lũy KLNcao hơn rất nhiều lần trong môi trường chúng sinhsống. Thông qua việc phân tích hàm lượng KLNtrong mô và xác định mối quan hệ giữa hàm lượngKLN trong môi trường và trong mô động vật có thểđánh giá chất lượng môi trường nơi chúng sinh sống[5, 9]. Việc đánh giá khả năng tích lũy KLN củamột số loài nhuyễn thể đã được một số tác giảnghiên cứu [2, 6, 8]. Các đối tượng thường được sửdụng là Ngao dầu (Meretrix meretrix L.), Sò lông(Anadara subcrenata), Vẹm xanh (Perna viridisL.),Sò huyết (Anadara granosa)… Tuy nhiên, hầuhết các kết quả nghiên cứu chưa đánh giá mối tươngquan giữa hàm lượng KLN trong môi trường vàtrong các loài hai mảnh vỏ, từ đó đánh giá khả năngchỉ thị ô nhiễm KLN của các loài này.Khu vực Vũng Thùng, Tp. Đà Nẵng là nơi tiếpnhận các nguồn thải gây ô nhiễm như hoạt động củacảng biển, khai thác và chế biến thủy sản, hoạt độngvận tải của tàu thuyền và chất thải đô thị của thànhphố, ... Nguy cơ và tác động của KLN đến hệ sinhthái biển tại khu vực này là khá lớn. Kết quả nghiêncứu được trình bày trong bài báo này không chỉphân tích hàm lượng KLN trong trầm tích và sinhvật tại khu vực Vũng Thùng nhằm đánh giá chấtlượng môi trường mà còn cung cấp những dữ liệu vềkhả năng chỉ thị KLN của các loài Vẹm xanh vàHàu trong môi trường.TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁPQua khảo sát và thu thập thông tin ban đầu, loàiVẹm xanh (Perna viridis Linnaeus) và loài Hàu(Crassostrea gigas Thunberg) thuộc họ Veneridae,bộ Veneroidea, lớp Hai mảnh vỏ (Bivalvia), ngànhThân mềm (Mollusca) được khảo sát. Đây là nhữngloài có tần suất xuất hiện cao và có thể tiến hành thumẫu nhiều đợt trong năm. Mẫu động vật và mẫutrầm tích được thu đồng thời vào 2 đợt (tháng3/2011 và tháng 8/2011) tại 3 khu vực ở VũngThùng, Tp. Đà Nẵng: khu vực 1 gần cảng Tiên Sa(16o06’45,56”N, 108o14’09,32”E), nơi neo đậu vàqua lại của tàu thuyền; khu vực 2 nằm phía trongcầu Mân Quang (16o06’15,35”N, 108o14’27,98”E),nơi có sự xáo trộn mạnh bởi lưu lượng tàu thuyền ravào cảng cá; khu vực 3 thuộc khu vực cảng cá ThọQuang (16o05’45,99”N, 108o14’13,20”E) là nơithường tập trung tàu thuyền của ngư dân khai thácthủy sản (hình 1).Hình 1. Sơ đồ các địa điểm nghiên cứuMẫu trầm tích đuợc lấy ở độ sâu 0 - 15cm trênbề mặt đáy trầm tích. Mẫu được để khô tự nhiêntrong môi trường không khí ở nhiệt độ phòng, sauđó được nghiền và lọc mẫu qua rây có kích thước0,2mm, cân 5 gam mẫu khô và vô cơ hóa bằng axitHNO3 + HClO4 + H2O2 trên máy vô cơ hóa mẫu tựđộng VELP - DK6 [1].Mẫu động vật được bảo quản trong thùng lạnhở 40C. Sau khi được định loại hình thái động vậttheo tài liệu của [11], mẫu động vật được tách bỏphần ruột, nghiền nhỏ, sau đó cân 5 gam và vô cơhóa mẫu động vật bằng dung dịch HClO4 + HNO3đặc + H2O2 trên máy vô cơ hóa mẫu tự động VELPDK6 [1].81Hàm lượng Pb và Cd trong mẫu động vật vàtrầm tích được phân tích bằng phương pháp quangphổ hấp phụ nguyên tử (AAS) tại phòng Thí nghiệmPhân tích Môi trường khu vực II - Đài Khí tượngThủy văn Trung Trung bộ.Số liệu nghiên cứu được xử lý theo phươngpháp thống kê, so sánh các giá trị trung bình bằngphân tích phương sai (Anova), kiểm tra độ sai khácnhỏ nhất có ý nghĩa (LSD) với α = 0,05, phân tíchtương quan giữa các yếu tố với các giá trị đượcchuyển dạng theo công thức x’ = log10 (x+10).KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬNHàm lượng Pb và Cd trong trầm tíchKhả năng lắng đọng của các ion kim loại trướchết phụ thuộc vào các thông số địa hóa môi trườngcơ bản pH và Eh; bên cạnh đó thì các yếu tố ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển Hàm lượng cadimi (cd) và chì (pb) Kim loại trầm tích và trong sinh vật Vẹm xanh perna viridis linnaeus Hàu crassostrea gigas thunberg Thành phố Đà NẵngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Quyết định Về việc bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý
1 trang 179 0 0 -
Thành phần loài, phân bố và sinh lượng các loài rong biển ở khu kinh tế Dung Quất - Quảng Ngãi
7 trang 125 0 0 -
Quyết định số 47/2012/QĐ-UBND
44 trang 119 0 0 -
Quyết định số 61/2012/QĐ-UBND
3 trang 80 0 0 -
8 trang 74 0 0
-
10 trang 63 0 0
-
7 trang 45 0 0
-
Vai trò của thành phố Đà Nẵng trong sự phát triển hành lang kinh tế Đông – Tây Việt Nam
8 trang 40 1 0 -
26 trang 34 0 0
-
Quyết định số 343/2017/QĐ-UBND
29 trang 32 0 0