Danh mục

HÁT TRỐNG QUÂN

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 182.38 KB      Lượt xem: 29      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hát trống quân là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có lịch sử lâu đời, với hình thức hát đối đáp giao duyên kèm theo gõ trống, khá phổ biến ở nhiều địa phương thuộc vùng trung du và châu thổ sông Hồng. Không chỉ người Kinh mà người Mường ở Phú Thọ cũng có hát trống quân.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HÁT TRỐNG QUÂN HÁT TRỐNG QUÂN Hát trống quân là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có lịch sử lâu đời, với hình thức hát đối đáp giao duyên kèm theo gõ trống, khá phổ biến ở nhiều địa phương thuộc vùng trung du và châu thổ sông Hồng. Không chỉ người Kinh mà người Mường ở Phú Thọ cũng có hát trống quân. 1. Nguồn gốc lịch sử hát trống quân Xã Tân Lập, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ là xã vùng cao, dân cư chủ yếu là người Mường. Trước đây trong những ngày lễ hội... trống đất... được kết hợp với đàn... Tòng tửng..., khèn pỉ đâm đuống, cồng chiêng để đệm cho hát giang hát ví Mường(1).Truyền thuyết dân gian ở Tân Lập kể rằng, trống đất có từ thời các vua Hùng. Nội dung truyền thuyết nói về việc vua Hùng cùng quân sĩ, sau một trận đánh thắng giặc, trên đường về kinh đô có cho quân dừng lại Tân Lập. Vua truyền cho quân sĩ hạ trại, khao quân mừng thắng lợi. Trong lúc quân sĩ đóng cọc dựng trại, có người áp tai xuống đất và nghe thấy tiếng đóng cọc như những tiếng trống thình thùng thình vang lên. Từ đó, người ta sáng tạo ra trống đất và lan truyền trong dân gian. Vào ngày hội làng, trống đất cùng với một số nhạc khí khác được dùng đệm cho những câu hát đối đáp giao duyên giữa trai và gái. Chúng tôi về Tân Lập gặp nghệ nhân Đinh Văn Nhặt (Nhật), được biết, ông từng làm và chơi trống đất từ hồi còn trẻ. Ngày trước ông bà, bố mẹ của ông đều đi hát đối đáp giao duyên có đánh tr ống đất, điểm nhịp cho những câu hát. Ông được cụ thân sinh truyền cho cách làm trống đất. Chúng tôi được xem ông trổ tài làm một chiếc trống đất, ở một bãi cỏ rộng. Đầu tiên, ông sắp lễ tế thần linh thổ địa, chọn một khoảnh đất nhỏ mịn, bằng phẳng rồi dùng thuổng khoét một hố tròn, đường kính mặt trên 25 cm, đáy rộng khoảng 35 cm, sâu 45 cm. Hố hình chum, giữa thân khoét hàm ếch rộng chừng 45 cm. Ông chọn vài bẹ mo cau khô, xếp tráo đầu đuôi đặt lên miệng hố, dùi một lỗ tròn nhỏ ở giữa, lấy một sợi dây rừng gọi là cây rọ rọ (theo ông Nhặt chỉ có loại dây này căng vào trống, tiếng mới vang mà ấm) thắt nút một đầu, lồng lỗ nhỏ phía dưới bẹ cau, đặt bốn nẹp nứa hình vuông ở bốn góc hố, lấy lạt và đinh tre gim chặt những bẹ cau, lấy bốn cái đinh tre đóng xuống đất gim chặt 4 cái nẹp nứa, ông bảo đây là mặt trống. Tiếp theo, ông đóng hai cọc tre cách tâm trống khoảng 1m, căng một sợi dây rọ rọ trên hai cọc tre rồi nối với sợi dây mặt trống. Ông Nhặt cười rồi nói trống đất này cổ hơn cả trống đồng đấy. Chúng tôi gõ vào sợi dây căng trên hai cọc tre, tiếng trống trầm, ấm âm vang một vùng không gian rộng. Về cơ bản, trống đất của người Mường Tân Lập giống với trống đất của người Việt. Tuy người Mường không gọi lối hát đối đáp giữa trai và gái có gõ trống là hát trống quân, song tính chất của lối hát này hoàn toàn giống với lối hát trống quân ở vùng châu thổ sông Hồng. Ở xã Đức Bác, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc có lối hát giao duyên được gọi là trống quân Đức Bác. Hát trống quân Đức Bác được hình thành do tục kết nghĩa đã có từ lâu đời giữa phường xoan làng Phù Đức (xã Kim Đức nay thuộc thành phố Việt Trì) và xã Đức Bác. Hát trống quân Đức Bác có âm điệu, làn điệu riêng. Còn lối hát giao duyên ở một số làng xã thuộc tỉnh Phú Thọ như Hữu Bổ (Phong Châu), Phùng Nguyên (Lâm Thao), Hưng Hóa (Tâm Nông)... cũng được gọi là trống quân, vì khi hát đối đáp giữa trai và gái có gõ trống làm hiệu lệnh, cũng là để lấy nhịp. Ở các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Hà Nội... đều có hát trống quân. Ngoài lối hát ở Đức Bác ra, các lối trống quân ở vùng trung du, châu thổ sông Hồng về đại thể là giống nhau. Cho tới nay, chưa có công trình khoa học nào khẳng định chính xác hát trống quân có từ bao giờ. Ở vùng Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) người ta vẫn truyền nhau một câu chuyện: Vào đời vua Hùng thứ 3, công chúa Tiên Dung trong một chuyến du ngoạn dọc theo sông Hồng đã có cuộc tình duyên kỳ ngộ với chàng trai nghèo Chử Đồng Tử. Mặc dù bị ngăn trở, nhưng Tiên Dung vẫn quyết cùng Chử Đồng Tử nên vợ nên chồng. Vợ chồng Tiên Dung - Chử Đồng Tử đã cùng người dân Dạ Trạch khai phá cả một vùng lau sậy bạt ngàn và những bãi cát hoang sơ thành làng quê trù phú. Công chúa Tiên Dung đã dạy dân cách trồng lúa, ươm tơ, dệt vải và đặc biệt còn dạy cả điệu hát trống quân. Qua tìm hiểu, chúng tôi còn thấy có một số giả thuyết về nguồn gốc và thời điểm ra đời, của hát trống quân như sau: Hát trống quân xuất hiện từ thời nhà Trần. Thời kỳ chống quân Nguyên xâm lược, binh sĩ ta khi nghỉ ngơi đã ngồi thành hai hàng đối nhau mỗi bên có một cái trống, mỗi câu hát đối đáp nhau đều gõ trống làm nhịp. Lối hát này sau đó lan truyền trong dân gian. Hát trống quân xuất hiện từ khi vua Quang Trung dẫn quân thần tốc ra Bắc đánh đuổi giặc Thanh. Để binh lính đỡ mệt mỏi, vua bày một trò chơi: cho một bên quân lính giả làm gái ra những câu hát đối, một bên là các chàng lính hát đáp. Mỗi câu hát có tiếng trống đánh điểm nhịp, lúc nghỉ cũng nh ư lúc hành q ...

Tài liệu được xem nhiều: