Danh mục

Hệ thống cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính

Số trang: 6      Loại file: doc      Dung lượng: 110.00 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đứng trước sự sa sút của nền kinh tế và các khủng hoảng tài chính, các nhà lãnh đạo cũng như các nhà hoạch định chính sách luôn phải đối diện với câu hỏi: làm thế nào để dự đoán được các hiện tượng này để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tác động của nó trong tương lai. Dominic Barton, Roberto Neweill, và Gregory Wilson thuộc Tập đoàn McKinsey đã đưa ra 10 chỉ số quan trọng để nhận dạng các dấu hiệu khủng khoảng mà các nhà quản lý cần kiểm soát; quan trọng cả về mức độ và xu hướng....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hệ thống cảnh báo sớm khủng hoảng tài chính Hệ thống cảnh báo sớm các khủng hoảng tài chính Đứng trước sự sa sút của nền kinh tế và các khủng hoảng tài chính, các nhà lãnh đ ạo cũng như các nhà hoạch định chính sách luôn phải đối diện với câu hỏi: làm thế nào đ ể d ự đoán được các hiện tượng này để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tác động của nó trong tương lai. Dominic Barton, Roberto Neweill, và Gregory Wilson thuộc Tập đoàn McKinsey đã đ ưa ra 10 ch ỉ số quan trọng để nhận dạng các dấu hiệu khủng khoảng mà các nhà quản lý c ần ki ểm soát; quan trọng cả về mức độ và xu hướng. Rạng sáng ngày 02 tháng 07 năm 1997, các chủ nhà băng hàng đ ầu Băng C ốc b ị đánh th ức và được triệu tập họp lúc 6h30 sáng tại toà nhà đối diện Cung đi ện Ban- khum-pron, tên g ọi th ường đ ược biết đến của trụ sở Ngân hàng Thái Lan lộng lẫy. Khi các chủ nhà băng t ập trung đông đ ủ v ới v ẻ lo lắng, họ được thông báo rằng sau nhiều tháng kháng cự, Chính ph ủ buộc ph ải d ỡ b ỏ m ức neo giá đ ồng bạt Thái với đồng đô la Mỹ. Khi các thị trường mở cửa vài giờ sau đó, t ất cả đều hoảng loạn. Đồng bạt giảm 15% so với đồng đô la Mỹ, báo trước một cuộc khủng hoảng kinh tế càn quét Thái Lan và những nước còn lại ở Châu Á ngay sau đó, tác động t ới cả thế gi ới. Trái với những kịch tính sau sự đổ vỡ của nền kinh tế Thái Lan, các yếu tố của cơn bão đã dần hình thành một cách lặng lẽ trong nhiều năm. Một dấu hiệu sớm của khủng hoảng là vi ệc Ngân hàng Thương mại Băng-cốc sụp đổ giữa năm 1996. Thất bại của ngân hàng này đã phơi bày các hoạt động ngân hàng kém hiệu quả tồn tại trong nhiều năm. Tiếp đó, Somprasong Land, một công ty từng chuyển đổi hàng ngàn héc-ta đầm lầy thành nhà ở ven đô, đã trở thành công ty b ất đ ộng s ản đầu tiên vỡ nợ trái phiếu quốc tế, kéo theo các xì-căng-đan và thất bại khác. Không lâu sau, các giám đốc ngân hàng nước ngoài bắt đầu thu hồi nợ. Các quỹ đầu tư mạo hiểm và các nhà đ ầu t ư khác, c ảm nh ận được sự suy thoái của nền kinh tế, bắt đầu bán ra đồng bạt. Các công ty của Thái Lan, e s ợ r ằng đ ồng tiền sắp bị phá giá, đồng loạt đổi bạt lấy đô la Mỹ. Đồng bạt Thái rớt giá ngay sau đó. Trong khi đó, cả Standard & Poor và Moody đều không tiên đoán trước được mức độ trầm trọng của cơn bão tài chính Thái Lan. Ngay cả IMF, vào đêm trước khi xảy ra khủng hoảng mùa hè 1997, vẫn đánh giá cao sự “tăng trưởng kinh tế đáng ghi nhận” và “quá trình tăng trưởng kinh tế vĩ mô liên tục” của Thái Lan. Đến mùa thu 1997, tất nhiên, các d ự đoán l ạc quan này c ủa h ọ đ ều bay theo gió. Các nhà quan sát dày dặn kinh nghiệm - với nhiệm vụ là xác định vấn đ ề trước khi chúng bi ến thành khủng hoảng - đều không nhận biết được các dấu hiệu khủng hoảng ở Thái Lan. Họ cũng bỏ qua các dấu hiệu này ở các trường hợp khác như chúng ta đã thấy, ví dụ như cuộc khủng hoảng tài chính năm 1994-1995 tại Mexico. Làm thế nào mà các chuyên gia lại tính sai như vậy? Tại sao h ọ lại không th ể nhìn th ấy m ột c ơn bão tài chính đang tiến đến gần? Chúng tôi tin rằng nguyên nhân là do đa s ố các chuyên gia ch ỉ d ựa trên sự suy đoán thông thường, đó là theo dõi sự lựa chọn của Chính phủ về tỷ giá hối đoái, quản lý tài chính và tổng lượng tiền để nhận biết một cuộc khủng hoảng đang t ới g ần. Chắn chắn rằng các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đóng vai trò quan trọng, vì cuộc kh ủng ho ảng di ễn ra ở Arghentina năm 2002 là minh chứng rõ ràng: Cuộc khủng hoảng năm 2001-2002 ở Arghentina phát sinh do tình hình tài chính bất ổn, dẫn tới việc Chính phủ không thể trả 141 t ỷ đô la đang n ợ, vi ệc phá giá mạnh đồng pê-sô khi không còn liên kết với đồng đô la Mỹ, và đóng băng ti ền g ửi ngân hàng, t ất c ả những yếu tố này đã làm bùng phát cuộc khủng hoảng ngân hàng. Tuy nhiên, d ựa trên nghiên c ứu c ủa mình, chúng tôi tin rằng phần lớn các dấu hiệu cảnh báo các cơn bão tài chính nằm ở điều kiện kinh tế vi mô mà chúng tôi chắc rằng báo hiệu khủng hoảng tài chính trước khi chúng tích lu ỹ thành các bi ến động lớn. Vì lý do này, chúng tôi khẳng định rằng điều tiết kinh t ế vi mô - v ới các số đo tương đối đơn giản - song song với việc theo dõi các chỉ số kinh tế vĩ mô sẽ không những giúp tìm ra nguyên nhân của khủng hoảng mà còn chỉ ra nơi khủng hoảng sẽ tấn công và thậm chí khoảng thời gian nó có thể tấn công. Khuôn mẫu hình thành khủng hoảng Không ai có thể tranh luận rằng khủng hoảng tài chính dễ dự đoán. Như một cựu quan chức của IMF thừa nhận, “IMF đã dự đoán 15 so với sáu khủng hoảng vừa rồi.” Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng không thể không dự đoán được chúng, đặc biệt là khi phần lớn các cuộc khủng hoảng tài chính có chung một khuôn mẫu. Mười dấu hiệu của khủng hoảng Cần có sự kết hợp của cả nghệ thuật và khoa học để thấy được các dấu hiệu cảnh báo kh ủng hoảng tài chính. Sau đây là 10 chỉ số quan trọng mà các nhà quản lý c ần ki ểm soát; quan tr ọng c ả v ề mức độ và xu hướng. Khi một vài trong số các chỉ s ố này bắt đầu đi sai h ướng cùng m ột lúc, có th ể m ột cuộc khủng hoảng đang nhen nhóm. 1. Giá trị bị đổ vỡ ở khối tư nhân. Khi các công ty không kiếm ra đ ủ tiền đ ể trang tr ải cho chi phí c ủa số tiền họ đi vay, thì một cuộc khủng hoảng có thể đang tiềm tàng. Đèn đ ỏ bật sáng khi l ợi nhu ận c ủa phần lớn các công ty trong nước đều ít hơn chi phí trung bình về vốn. Điều này đúng với mọi kh ủng hoảng chúng tôi đã nghiên cứu. 2. Tỷ lệ trang trải lãi suất. Nếu tỷ lệ giữa dòng ti ền mặt và các khoản thanh toán lãi c ủa m ột công ty giảm xuống dưới 2, công ty đó có thể đang phải đối mặt với kh ủng hoảng thanh khoản; n ếu đi ều này xảy ra ở các công ty hàng đầu trong nước, một cuộc khủng hoảng rộng lớn có th ể s ắp x ảy ra. 3. Mức lợi nhuận của các ngân hàng. Doanh thu tài sản trên toàn hệ thống hàng năm nh ỏ h ơn 1% đối với các ngân hàng thương mại và/hoặc biên độ lãi suất ròng hàng năm nhỏ hơn 2% thường là các dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng. 4. Danh mục cho vay tăng nhanh. Khi danh mục cho vay của ngân hàng phát tri ển nhanh h ...

Tài liệu được xem nhiều: