Kỳ I: Nhận dạng những thủ phạm gây bệnh Viêm cơ tim (VCT) là tình trạng viêm, hoại tử hoặc ly giải của tế bào cơ tim gây nên do nhiễm vi khuẩn, virut, do bệnh mô liên kết, do nhiễm độc hoặc không rõ nguyên nhân. Các quá trình bệnh lý này ảnh hưởng đến cơ tim kèm theo hoặc không kèm theo triệu chứng toàn thân. Những biểu hiện thường gặp nhất là triệu chứng của suy tim, tuy nhiên đôi khi là rối loạn nhịp tim hoặc đột tử.Những năm trước đây, thấp khớp cấp là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiểm họa từ viêm cơ tim – Kỳ I Hiểm họa từ viêm cơ tim – Kỳ I Cơ tim bình thường (trái) và cơ tim bị giãn do viêm cơ tim (phải). Kỳ I: Nhận dạng những thủ phạm gây bệnh Viêm cơ tim (VCT) là tình trạng viêm, hoại tử hoặc ly giải của tế bào cơtim gây nên do nhiễm vi khuẩn, virut, do bệnh mô liên kết, do nhiễm độc hoặckhông rõ nguyên nhân. Các quá trình bệnh lý này ảnh hưởng đến cơ tim kèm theohoặc không kèm theo triệu chứng toàn thân. Những biểu hiện thường gặp nhất làtriệu chứng của suy tim, tuy nhiên đôi khi là rối loạn nhịp tim hoặc đột tử. Những năm trước đây, thấp khớp cấp là nguyên nhân thường gặp của VCT.Ngày nay, chúng ta biết thêm nhiều nguyên nhân khác như virut, vi khuẩn, ký sinhtrùng, một số hoá chất và thuốc có khả năng gây dị ứng hoặc nhiễm độc, các bệnhhệ thống... Virut là nguyên nhân chính Cho đến thời điểm hiện nay, viêm cơ tim (VCT) vẫn là một trong nhữngbệnh có nhiều thách thức nhất đối với các thầy thuốc tim mạch bởi vì chúng ta cònchưa hiểu biết đầy đủ về sinh lý của bệnh, chưa có tiêu chuẩn vàng nào trong chẩnđoán được chấp nhận và tất cả các phác đồ điều trị hiện đang còn bàn cãi. Virut là nguyên nhân chủ yếu gây VCT hiện nay, trong đó hay gặp làCoxsakie virut B, Adenovirus, virut cúm, virut Dengue và virut viêm gan C đều cóthể gây VCT. Virut HIV có khả năng xâm nhập cơ tim trực tiếp. Các chủnginterovirus như Coxsakie B3 và B4 là những virut ưu thế được phát hiện cả vềhuyết thanh và phương pháp phân tử trực tiếp như PCR. Gần đây do kỹ thuật phântử phát triển hơn và do dịch tễ học đã thay đổi, một số tác nhân virut trở nên chiếmưu thế đó là Adenovirus, virut viêm gan C. Nhiễm HIV thường liên quan đến suytim mất bù. Tỷ lệ mắc bệnh không được biết rõ do có nhiều trường hợp VCT nhẹtự khỏi nên người bệnh và gia đình không nhận thấy, do vậy cũng không đến bệnhviện khám. VCT do virut thường xảy ra rải rác, tuy nhiên đôi khi cũng xảy rathành dịch. VCT do virut có biểu hiện bằng một tình trạng viêm rất đột ngột, đặc trưngbởi sự thâm nhiễm tế bào viêm, thoái hoá và hoại tử tế bào cơ tim, sau đó là quátrình xơ hoá của cơ tim. Hầu hết các virut thâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấptrên hay đường tiêu hoá. Cơ thể con người dễ bị nhiễm virut hơn khi bị suy dinhdưỡng, tập luyện hay làm việc quá sức, trẻ nhỏ hay người lớn tuổi, stress... do làmthay đổi đáp ứng tự miễn dịch khi bị nhiễm virut. Các dấu hiệu bệnh thường bị phát hiện chậm trễ Triệu chứng nhiễm virut phụ thuộc vào đường vào là đường hô hấp trên hayđường tiêu hoá. Bệnh nhân thường không để ý do vậy chậm chễ nhiều ngày đếnnhiều tuần trước khi triệu chứng ở tim xuất hiện như suy tim ứ huyết, rối loạn nhịptim (đột tử) và biến chứng thuyên tắc mạch. Biểu hiện lâm sàng tuỳ thuộc vào lứa tuổi bị bệnh và bản chất cấp tính haymạn tính của tình trạng nhiễm virut. Trẻ sơ sinh thường biểu hiện bằng sốt cao,suy tim, suy hô hấp nặng, tím tái, tiếng tim nghe xa xăm, mạch nhanh nhỏ, hở vanhai lá do vòng van bị giãn rộng, nhịp ngựa phi, nhiễm toan và sốc. Chụp Xquangtim phổi thường thấy bóng tim to, phổi ứ huyết, có thể có hình ảnh tràn dịch màngphổi hai bên. Điện tâm đồ có thể thấy nhịp nhanh xoang, điện thế giảm, bất thườngvề đoạn ST cũng như sóng T. Đôi khi rối loạn nhịp tim là biểu hiện đầu tiên củabệnh. Lúc này các triệu chứng như sốt và tim to gợi ý VCT cấp. Ở trẻ lớn hơn, VCT cấp cũng biểu hiện bằng suy tim ứ huyết cấp, nhưngthường gặp hơn là suy tim có tiến triển từ từ hoặc tình trạng nhịp nhanh thất xảy rađột ngột. Những bệnh nhân này, tình trạng nhiễm virut cấp tính đã qua và thườngcó tình trạng bệnh cơ tim giãn nở. Đôi khi bệnh nhân có triệu chứng giống như bịnhồi máu cơ tim cấp tính: đoạn ST chênh lên, tăng men tim CK, CK-MB, rối loạnvận động vùng, nhưng chụp động mạch vành bình thường. Chẩn đoán dựa vàosinh thiết cơ tim. Rối loạn vận động vùng sẽ hồi phục theo thời gian. Phần lớn các trường hợp VCT là hậu quả của nhiễm virut mà chúng tiếntriển sang giai đoạn tự miễn sau khi hồi phục và giảm tình trạng nhiễm siêu vi vàcuối cùng là tiến triển thành bệnh cơ tim giãn nở sau khi phục hồi và giảm tìnhtrạng tổn thương tự miễn. Nguyên nhân virut có thể chứng minh bằng phươngpháp gián tiếp hoặc trực tiếp (phân tử). Điều trị hợp lý trong giai đoạn nhiễm virutlà loại bỏ virus và cải thiện tình trạng viêm do virut.