Danh mục

Hiểm họa từ viêm cơ tim – Kỳ II

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 250.73 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Kỳ II: Thách thức cho thầy thuốc Viêm cơ tim (VCT) là một bệnh lý phức tạp, người bệnh có thể tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Tính đa dạng trong diễn biến của VCT khiến thầy thuốc gặp nhiều khó khăn trong tiên lượng. Khuynh hướng tương lai cần có những chiến lược chẩn đoán mới phản ánh đầy đủ quá trình sinh lý bệnh. Sự tiến bộ của các phương pháp nhằm làm rõ tương tác giữa virut, cơ tim và miễn dịch học cho phép chẩn đoán chính xác hơn, tiên lượng hợp...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiểm họa từ viêm cơ tim – Kỳ II Hiểm họa từ viêm cơ tim – Kỳ II Điện tim đồ kiểm tra nhịp tim ở người viêm cơ tim. Kỳ II: Thách thức cho thầy thuốc Viêm cơ tim (VCT) là một bệnh lý phức tạp, người bệnh có thể tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Tính đa dạng trong diễn biến của VCT khiến thầy thuốc gặp nhiều khó khăn trong tiên lượng. Khuynh hướng tương lai cần có những chiến lược chẩn đoán mới phản ánh đầy đủ quá trình sinh lý bệnh. Sự tiến bộ của các phương pháp nhằm làm rõ tương tác giữa virut, cơ tim và miễn dịch học cho phép chẩn đoán chính xác hơn, tiên lượng hợp lý hơn và điều trị hiệu quả hơn. Ngăn chặn sự nhân lên của virut Trong giai đoạn 1 của VCT, khi có sự nhân lên của virut, trong hầu hết các trường hợp thật khó để xác định nhanh chóng và chính xác chủng loại virut nhằm điều trị kháng virut đặc hiệu. Giai đoạn này có thể diễn ra mà không được ghi nhận vì không kèm triệu chứng suy tim. Khi tổn thương cơ tim rõ ràng trong giai đoạn 1, hầu hết các trường hợp chẩn đoán VCT dựa vào: nhóm dấu hiệu và triệu chứng nhiễm virut (sốt, tăng bạch cầu lympho, các dấu hiệu nhiễm khuẩn hô hấp hoặc tiêu hoá). Bệnh nhân có thể đau ngực và loạn nhịp nhĩ hoặc thất. Điều trị trong giai đoạn này bao gồm tránh ức chế miễn dịch gây hại, sử dụng các biện pháp kháng virut không đặc hiệu và kháng virut - trực tiếp khi tác nhân virut được xác định hoặc trong bối cảnh dịch tễ virut đã biết được. Nếu chức năng co bóp của tim giảm quá nặng cùng với giảm huyết áp thì có thể phải dùng dopamine hoặc epinephrine. Tuy nhiên các thuốc tăng co bóp cơ tim phải sử dụng hết sức thận trọng vì bệnh nhân VCT dễ bị rối loạn nhịp tim với các thuốc này. Trong trường hợp suy tim quá nặng, các biện pháp sử dụng thuốc không mang lại kết quả mong muốn thì cần phải đặt bóng trợ tim trong động mạch chủ (IABP), dụng cụ hỗ trợ thất... Nếu có tràn dịch màng tim gây ép tim cấp thì phải chọc tháo dịch màng ngoài tim. Sử dụng các thuốc chống rối loạn nhịp tim nếu cần và phải đặt tạo nhịp ngoài nếu bệnh nhân bị blốc nhĩ thất mức độ cao hay nhịp tim quá chậm. Giai đoạn hoạt hoá miễn dịch Lý tưởng nhất hệ thống miễn dịch tự trở về tình trạng nghỉ ngơi ban đầu nếu như quá trình tăng sinh virut đã được kiểm soát. Tuy nhiên nếu hoạt hoá miễn dịch của vật chủ vẫn tiếp tục không suy giảm dù đã loại bỏ được virut thì bệnh tự miễn có thể xảy ra và khởi phát giai đoạn 2. Giai đoạn 2 của bệnh là kết quả của hoạt hoá miễn dịch có thể chẩn đoán xác định qua sinh thiết. Chẩn đoán đảm bảo nhất khi tiến hành sinh thiết chỉ một vài ngày đến một vài tuần sau khi phục hồi triệu chứng nhiễm virut. Có rất nhiều cách thức điều trị điều hoà miễn dịch trong giai đoạn này bao gồm các thuốc ức chế miễn dịch, globuline miễn dịch có tác dụng điều hoà miễn dịch không có tác dụng chống virut trực tiếp cũng đã được sử dụng. Hiện nay chỉ các thuốc ức chế miễn dịch đã được chứng minh qua các nghiên cứu nên được sử dụng trong giai đoạn này của bệnh và chỉ khi giai đoạn này đã được xác định rõ ràng. Người ta thấy rằng các bệnh nhân VCT tối cấp tiến triển rối loạn huyết động đột ngột có tiên lượng tốt hơn những người VCT cấp và mạn dạng nhẹ. Những bệnh nhân này cần được điều trị tích cực với dụng cụ hỗ trợ thất trái vì khả năng phục hồi cao. Tiên lượng của VCT cấp do virut ở trẻ sơ sinh còn rất ảm đạm, tỷ lệ tử vong lên đến 75%. Tiên lượng của trẻ lớn bị bệnh cơ tim giãn do virut cũng không khả quan lắm. Giai đoạn bệnh cơ tim giãn nở Những bệnh nhân này tiếp tục có biểu hiện bệnh cơ tim giãn, xơ hoá và suy Khi không còn nhiễm virut và tái phát giảm chức năng co bóp của cơ tim. Ở hoạt hoá tự miễn thì bệnh nhân giai đoạn 3 phải người lớn có từ 5-10% bệnh tự lui. được xử trí như bệnh cơ tim giãn nở vô căn và Tuy nhiên có đến 50% bệnh nhân tử suy tim ứ huyết. Tái cấu trúc thất trái và bệnh vong trong vòng 2 năm và 80% tử cảnh lâm sàng tiến triển xấu hơn có thể được vong trong vòng 5 năm nếu không ngăn ngừa bằng thuốc ức chế men chuyển, ức được thay tim. chế bêta, spinorolactone. Đặt máy khử rung nên xem xét ở những người được chứng minh là có rối loạn nhịp thất đe doạ đến tính mạng người bệnh. Nếu suy tim quá nặng phải xem xét đến khả năng thay tim. Điều trị đối với trường hợp VCT nhẹ, chỉ cần nghỉ ngơi và điều trị triệu chứng, tăng cường sức đề kháng của cơ thể và đợi tim bệnh nhân tự phục hồi. Dùng kháng sinh nếu vi khuẩn là nguyên nhân viêm nhiễm. Khi tình trạng VCT giảm bớt, bệnh nhân có thể hoạt động lại từ từ. Trong giai đoạn này, bệnh nhân cần ăn nhạt, kiêng rượu, bia, thuốc lá và không gắng sức để giảm bớt gánh nặng lên tim. Một số bệnh nhân VCT ...

Tài liệu được xem nhiều: