Thông tin tài liệu:
Trên thế giới có khoảng 1/3 dân số tức là trên 2 tỷ người bị nhiễm virut viêm gan B và khoảng 350 triệu người trong số họ trở thành mang virut mạn tính. Nếu trẻ em nhiễm virut viêm gan B do lây truyền từ mẹ thì 98% những trẻ em này sẽ mang virut suốt đời và 40% trong số này có nguy cơ sẽ chết vì bệnh xơ gan và ung thư gan. Vì thế tiêm vaccin phòng bệnh cho trẻ ngay sau khi sinh là một biện pháp phòng bệnh tốt nhất.
Đường lây truyền của virut...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiểm họa từ virut viêm gan B
Hiểm họa từ virut viêm gan B
Trên thế giới có khoảng 1/3 dân số tức là trên 2 tỷ người bị nhiễm virut
viêm gan B và khoảng 350 triệu người trong số họ trở thành mang virut mạn tính.
Nếu trẻ em nhiễm virut viêm gan B do lây truyền từ mẹ thì 98% những trẻ em này
sẽ mang virut suốt đời và 40% trong số này có nguy cơ sẽ chết vì bệnh xơ gan và
ung thư gan. Vì thế tiêm vaccin phòng bệnh cho trẻ ngay sau khi sinh là một biện
pháp phòng bệnh tốt nhất.
Đường lây truyền của virut viêm gan B
- Lây truyền qua đường máu: hay gặp do truyền máu và chế phẩm của máu
có nhiễm virut viêm gan B, dùng kim tiêm chung mà chưa được khử trùng theo
đúng tiêu chuẩn.
- Lây truyền qua quan hệ tình dục.
- Truyền từ mẹ sang con: Virut được truyền từ mẹ sang con trong quá trình
sinh đẻ mà không phải trong thời kỳ mang thai. Nếu trong cơ thể mẹ có virut viêm
gan B thì khả năng lây truyền từ mẹ sang con ngay sau khi lọt lòng là 50-90% tùy
theo nồng độ virut trong huyết thanh của mẹ cao hay thấp và người mẹ có HBeAg
dương tính hay âm tính. Đây là con đường lây truyền nguy hiểm cần phải phòng
tránh.
Diễn biến khi bị virut xâm nhập
Sau khi nhiễm virut viêm gan B phần lớn người bệnh không có biểu hiện
của bệnh chỉ có một số ít người có biểu hiện viêm gan virut B cấp tính đó là: mệt
mỏi, chán ăn, sợ mùi thức ăn, đặc biệt là thức ăn có nhiều chất béo và nhiều chất
đạm đạm (trứng, thịt, cá), đau mỏi toàn thân, đi tiểu nước tiểu sẫm màu như nước
trà đặc hoặc nước vối, tiếp sau đó da và củng mạc mắt vàng tăng dần. Sau 1-2
tháng diễn biến bệnh nhân dần hồi phục. Tuy nhiên trong giai đoạn viêm gan cấp
có một tỷ lệ rất ít bệnh nhân có thể viêm gan nặng và suy gan dẫn tới tử vong.
Khoảng 10% số người lớn sau khi bị viêm gan virut B cấp tính sau 6 tháng
vẫn chưa sạch virut mà chuyển sang giai đoạn mạn tính. Trong trường hợp điển
hình viêm gan virut B mạn tính bệnh nhân có từng đợt mệt mỏi, nước tiểu sẫm
màu, đau vùng gan, có thể có vàng da, khi đi khám bệnh thường được phát hiện có
gan to, chắc. Thật không may mắn cho người bệnh, ở giai đoạn mạn tính hầu như
không có biểu hiện các triệu chứng mặc dù bệnh vẫn tiến triển âm thầm dẫn tới xơ
gan và ung thư gan.
Cách xác định có bị nhiễm virut viêm gan B hay không
Muốn biết mình có nhiễm virut viêm gan B chỉ cần xét nghiệm HBsAg
trong máu. Nếu kết quả cho thấy có dương tính với HBsAg tức là mình đã bị
nhiễm virut viêm gan B. Nếu xét nghiệm cho kết quả âm tính với HBsAg mà có
dương tính với Anti-HBs có nghĩa là mình đã có nhiễm virut viêm gan B nhưng đã
khỏi và hiện tại đã có miễn dịch với virut viêm gan B. Nếu xét nghiệm cho kết quả
âm tính với HBsAg mà đồng thời có âm tính với Anti-HBs thì trường hợp này cần
phải đi tiêm phòng vì cơ thể chưa bị nhiễm virut viêm gan B và cũng chưa có khả
năng miễn dịch với bệnh.
Sau khi có viêm gan virut B cấp tính nếu sau 6 tháng mà xét nghiệm
HBsAg vẫn dương tính tức là người đó đã chuyển sang giai đoạn mạn tính.
Điều trị viêm gan virut B
Phần lớn viêm gan virut B cấp tính không cần dùng thuốc đặc hiệu để điều
trị virut vì 90% số trường hợp mắc bệnh ở người lớn hoặc trẻ em lớn bệnh sẽ khỏi
hoàn toàn. Trong giai đoạn cấp tính người bệnh chỉ cần nghỉ ngơi đảm bảo dinh
dưỡng tốt bệnh sẽ dần hồi phục.
Theo khuyến cáo của Hội Gan mật Hoa Kỳ (American Association for the
Study of Liver Diease -AASLD) viêm gan virut B mạn tính chỉ điều trị khi men
gan ALT (Alanine aminotranferase) tăng cao trên 2 lần trở lên so với bình thường.
Trên thế giới ngày nay ALT đối với người khỏe mạnh bình thường < 30
IU/ml đối với nam giới và < 19 IU/ml đối với nữ giới. Trong trường hợp ALT cao
ít hơn hoặc không cao mà khi sinh thiết gan cho thấy có viêm hoại tử nhiều hoặc
xơ nhiều thì cũng có chỉ định điều trị.
Các thuốc điều trị viêm gan: có hai nhóm thuốc đó là các thuốc uống có
nguồn gốc nucleoside và thuốc tiêm là các interferon. Các thuốc nucleoside bao
gồm: lamivudine, adefovir, telbuvidine, entecavir, tenofovir. Những thuốc này dễ
sử dụng nhưng phải dùng thuốc kéo dài. Các thuốc interferon dạng thuốc tiêm này
ít có hiệu quả đối với người Việt Nam bị viêm gan virut B mạn tính bởi vì nhóm
thuốc này có tác dụng tốt với viêm gan virut B mạn tính do genotype A mà người
Việt Nam chủ yếu là genotype B và C gây ra.
...