Danh mục

Hiến pháp 1946 và vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 166.31 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hiến pháp 1946 là hiến pháp không theo bất kì một nguyên mẫu theo cách tổ chức quyền lực nào đã có sẵn trong lịch sử Hiến pháp 1946 ghi nhận thành quả của Cách mạng Việt Nam, thể hiện tinh thần đại đoàn kết rất sâu sắc: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo".Sau tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, thành lập Nghị viện nhân dân, Nghị viện là nơi thể hiện rõ nét chủ quyền của nhân dân:...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiến pháp 1946 và vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước Hiến pháp 1946 và vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước1. Hiến pháp 1946 là hiến pháp không theo bất kì một nguyên mẫu theo cách tổchức quyền lực nào đã có sẵn trong lịch sửHiến pháp 1946 ghi nhận thành quả của Cách mạng Việt Nam, thể hiện tinh thầnđại đoàn kết rất sâu sắc: Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dânViệt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.Sau tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, thành lập Nghị viện nhân dân, Nghị viện là nơithể hiện rõ nét chủ quyền của nhân dân: Nghị viện là cơ quan có quyền cao nhất.Đến đây, ta thấy nó gần giống hình thức Cộng hòa Đại nghị. Nhưng Điều 43 lạikhẳng định: Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Namdân chủ cộng hòa, điều đó có nghĩa rằng cơ quan hành chính là một cơ quan độclập. Chưa hết, Hiến pháp năm 1946 không qui định trách nhiệm của Chủ tịch n ướctrước Nghị viện, mà khẳng định: Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệmnào, trừ khi phạm tội phản quốc. Đến đây, ta lại thấy với thiết chế Chủ tịch nướcvừa là người đứng đầu nhà nước đại diện về đối nội, đối ngoại; nhưng cũng làngười đứng đầu Chính phủ, và không chịu bất kì trách nhiệm gì trừ tội phản quốc.Qui định này lại cho ta thấy đặc điểm này lại mang dáng dấp của hình thức Cộnghòa Tổng thống.Điều đặc biệt là sau khi cách mạng Tháng mười Nga năm 1917 thành công, mộtbản Hiến pháp rất nổi tiếng có hiệu lực ở Liên xô thời điểm đó là Hiến pháp năm1936, là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng chủtịch Hồ Chí Minh cũng không lấy bản Hiến pháp này là khuôn mẫu khi xây dựngHiến pháp 1946.2. Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp duy nhất mạnh dạn đặt ra vấn đề cân bằngquyền lực:Đặc tính căn bản của lập pháp chính là ở tính cẩn trọng. Cơ chế kiểm soát và cânbằng quyền lực (check and balance) là một cơ chế hữu hiệu để tăng cường sự giámsát, kiểm tra chéo giữa các cơ quan, chống nguy cơ lạm quyền.Điều 31 qui định: Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước ViệtNam phải ban bố chậm nhất là 10 ngày sau khi nhận được thông tri. Nhưng tronghạn ấy, Chủ tịch n ước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại. Những luật đemra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nướcphải ban bố. Đây là qui định thể hiện dấu ấn khá rõ về sự kiểm soát lẫn nhau củahai nhánh quyền lập pháp và hành pháp.Cơ chế cân bằng quyền lực còn được thể hiện rõ ở Điều 59: Trong thời hạn 24giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm nội các thì Chủ tịch nước cóquyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại...Sau cuộc biểu quyết này,Nội các mất tín nhiệm phải từ chức. Đây là qui định độc đáo chỉ có trong Hiếnpháp 1946, các bản Hiến pháp sau này không thể hiện rõ cơ chế Nội các phải từchức này. Triết lý của vấn đề không phải ở việc Chính phủ bị mất tín nhiệm, mà ởchỗ nó thể hiện rõ chủ quyền thuộc về nhân dân. Nếu chính phủ không xứng đáng,chính phủ phải bị giải tán.3. Khác với các bản Hiến pháp khác, về phương diện tổ chức quyền lực, Hiếnpháp năm 1946 là Hiến pháp thể hiện rất rõ vai trò và trách nhiệm cá nhân:Hiến pháp 1946 đặt ra vấn đề Bộ trưởng phải được Nghị viện tín nhiệm, nếu khôngđuợc tín nhiệm thì phải từ chức. Chưa hết, Thủ tướng phải chịu trách nhiệm vềcon đường chính trị của Nội Các. Tập thể Nội các không phải liên đới chịu tráchnhiệm về hành vi của Bộ trưởng, điều đó muốn nhấn mạnh vấn đề cá nhân Bộtrưởng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách.4. Về tổ chức chính quyền địa ph ương, cơ chế tản quyền được áp dụng khánhuần nhuyễn và hiệu quảỞ cấp kỳ và cấp huyện không tổ chức Hội đồng nhân dân. Nghị quyết của Hộiđồng nhân dân phải được cấp trên phê chuẩn. Hội đồng nhân dân ở địa ph ươngtheo cơ chế tản quyền không nhất thiết phải đ ược thành lập ở tất cả các cấp. Càngnhiều cấp Hội đồng nhân dân thì tiếng nói của người dân càng bị khúc xạ, luậtpháp của nhà nước ở trung ương ban hành ra phải qua 4 cấp mới xuống được đếnngười dân. Chỉ ở hai cấp là cấp tỉnh và cấp xã điều đó cho thấy sự tài tình của nhàlập hiến trong việc giải quyết xung đột giữa tính quyền lực nhà nước ở địa phươngvà tính chất tự quản.5. Hiến pháp 1946 là Hiến pháp duy nhất khẳng định quyền lập hiến thuộc vềnhân dânCó thể khẳng định rằng Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp thể hiện tinh thần nhànước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân rõ nét nhất.Hiến pháp 1946 không có một điều nào qui định quyền lập hiến thuộc về Quốchội. Trong chương cuối cùng về sửa đổi hiến pháp, có một điều kiện bắt buộc vềmặt thủ tục: Sau khi đã được nghị viện ưng chuẩn, Hiến pháp phải đưa ra toàndân phúc quyết. Điều đáng tiếc là chưa một lần trong lịch sử, chúng ta đ ưa rađể toàn dân phúc quyết.Vậy có hai khả năng lập luận được đặt ra:1. Nếu coi Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc, thì tất cả cácHiến pháp còn lại là Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 hiện h ànhđều VI HIẾN vì vi phạm về trình tự, thủ tục xây dựng Hiến pháp và đương nhiênđến nay Hiến pháp 1946 vẫn còn hiệu lực trên thực tế.2. Nếu coi Hiến pháp 1946 không phải là bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc vì lýdo lịch sử đã được Nghị viện thông qua nhưng chưa đưa ra toàn dân phúc quyết,thì chúng ta phải chấp nhận một thực tế đau sót là quyền lập hiến chưa bao giờ làthuộc về nhân dân. Người dân Việt Nam chưa bao giờ biết đến quyền phúc quyếtmột văn bản pháp lý có hiệu lực quan trọng nhất l à Hiến pháp. Từ Hiến pháp 1959trở đi Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền ban hành và sửa đổi Hiến pháp. Phảichăng đây chính là một trong những lí do mà từ đó đến nay, chưa đầy nửa thế kỷHiến pháp - một văn bản pháp luật cần tính ổn định hơn cả đã bị sửa đi sửa lạinhiều lần? Liệu đã có một chủ nghĩa lập hiến ở nước ta? ...

Tài liệu được xem nhiều: