Hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm He tại tỉnh Quảng Nam
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 819.20 KB
Lượt xem: 25
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm he (Penaeidae) được thực hiện trong năm 2010 và 2011 tại Quảng Nam. Tiến hành điều tra bằng phương pháp đánh giá nông thôn nhanh (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ) các chủ hộ kinh doanh thức ăn thủy sản (38/42 hộ) và các hộ nuôi tôm he (65/189 hộ). Các thông tin thu thập bao gồm: thông tin về chủ hộ kinh doanh thức ăn, phương thức quản lý, hiện trạng nuôi tôm, sử dụng thức ăn, những khó khăn của chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm và nuôi tôm,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm He tại tỉnh Quảng Nam Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC HIỆN TRẠNG CUNG ỨNG VÀ SỬ DỤNG THỨC ĂN NUÔI TÔM HE TẠI TỈNH QUẢNG NAM CURRENT STATUS OF PENAEID SHRIMP FEED SUPPLY AND ULTILIZATION IN QUANG NAM PROVINCE Nguyễn Minh Phương1, Lại Văn Hùng2 Ngày nhận bài: 25/10/2012; Ngày phản biện thông qua: 04/01/2013; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013 TÓM TẮT Nghiên cứu hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm he (Penaeidae) được thực hiện trong năm 2010 và 2011 tại Quảng Nam. Tiến hành điều tra bằng phương pháp đánh giá nông thôn nhanh (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ) các chủ hộ kinh doanh thức ăn thủy sản (38/42 hộ) và các hộ nuôi tôm he (65/189 hộ). Các thông tin thu thập bao gồm: thông tin về chủ hộ kinh doanh thức ăn, phương thức quản lý, hiện trạng nuôi tôm, sử dụng thức ăn, những khó khăn của chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm và nuôi tôm,... Kết quả điều tra cho thấy, đa số hộ kinh doanh thức ăn và nuôi tôm có trình độ khá cao. Các chủ hộ kinh doanh thức ăn chủ yếu là các đại lý cấp 1, kinh doanh nhiều mặt hàng thức ăn và thuốc thú y thủy sản. Hầu hết chủ hộ kinh doanh thức ăn có tham gia nuôi tôm he chân trắng (90%). Cả chủ hộ kinh doanh và người nuôi đều được hưởng nhiều chính sách ưu đãi từ công ty thức ăn như thưởng theo doanh số và chiết khấu khi mua hàng. Thức ăn cho tôm he chân trắng có hàm lượng protein 37 - 42%. Các hộ kinh doanh cơ bản đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh theo quy định tuy nhiên nhận thức và thực hiện các văn bản pháp quy còn hạn chế. Hầu hết các hộ nuôi chỉ nuôi tôm he chân trắng với hình thức thâm canh và bán thâm canh. Sau 3 tháng nuôi, hệ số thức ăn là 1,2, năng suất bình quân đạt được 12,1 tấn/ha/năm. Từ khóa: hộ kinh doanh, hộ nuôi tôm, Quảng Nam, sử dụng, tôm he, tôm he chân trắng ABSTRACT The survey on the current status of penaeid shrimp (Penaeidae) feed supply and ultilization was carried out between 2010 and 2011 in Quang Nam province. The methods of Rapid Rural Appraisal (RRA) and Survey Questionaire (SQ) were used to collect information related to shrimp feed dealers (38/42 dealers) and shrimp farmers (65/189 farmers). The collected data included information about dealers, management, shrimp farming, feed ultilization, and difficulties of dealers and shrimp farmers,... The results showed that most of the dealers and shrimp farmers had high academic standard. Most of the dealers were first class dealers who traded variety of products of shrimp feeds and aquatic veterinary medicines. Most dealers participated in whiteleg shrimp farming which accounted for 90%. Both dealers and shrimp farmers recieved many preferential treatments from feed comnpanies such as rewarding in accordance with sales and discounts when purchasing feeds. The protein contents in the whiteleg shrimp feeds ranged from 37 - 42%. The dealers basically satisfied the business requirements according to regulations, however, their awareness and implementation of legal regulations were still very limited. Most of the farmers cultured whiteleg shrimp by intensive and semi-intensive models. After 3 months, the food conversion ratio was 1,2, and the average annual productivity was about 12,1 tons/ha. Keywords: feed dealers, penaeid shrimp, Quang Nam, shrimp farmers, ultilization, whiteleg shrimp 1 2 Nguyễn Minh Phương: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang PGS.TS. Lại Văn Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 78 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghề nuôi tôm he, với 2 đối tượng nuôi chính là tôm sú (Penaeus monodon Fabricius, 1798) và tôm he chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931), ở nước ta phát triển rất mạnh mẽ trong những năm gần đây và đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của ngành Thủy sản. Đồng thời, nó cũng giúp giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nhiều ngư dân [12]. Tôm he chân trắng thể hiện được nhiều ưu điểm nổi bật ngay từ khi được di nhập và nuôi thử nghiệm ở nước ta năm 2001 như: sinh trưởng nhanh, thời gian nuôi ngắn, năng suất cao và thích ứng tốt với các yếu tố môi trường [8, 9, 13]. Do vậy, đây là đối tượng đang được nuôi phổ biến ở nhiều địa phương, trong đó có Quảng Nam thay thế cho các diện tích nuôi tôm sú không hiệu quả và các vùng đất cát hoang hóa [3, 6]. Từ năm 2005 đến năm 2011, diện tích nuôi tôm he chân trắng cả nước tăng rất nhanh từ 1.598 ha lên 25.397 ha [1, 12]. Trong nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu chi phí sản xuất, chiếm từ 55 - 65% [7]. Hơn nữa, do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mặt trái của kinh tế thị trường và những bất cập trong quản lý giá cả đã đẩy giá thức ăn không ngừng tăng cao gây ra rất nhiều khó khăn cho người nuôi. Sự đa dạng về chủng loại thức ăn nuôi tôm, cùng với sự yếu kém trong quản lý chất lượng từ các cơ quan chức năng và hệ thống văn bản pháp quy chưa phù hợp,... cũng là những nguyên nhân làm cho việc quản lý chất lượng thức ăn kém hiệu quả [5, 10]. Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp các thông tin về hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm he tại Quảng Nam. Đây cũng chính là cơ sở để các cơ quan chức năng ngành Thủy sản đưa ra các chính sách nhằm quản lý tốt hơn các hoạt động cung ứng và sử dụng các sản phẩm này. Số 3/2013 Quảng Nam, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện Thăng Bình, Núi Thành và thành phố Tam Kỳ. Số liệu thu thập bao gồm: số lượng hộ kinh doanh thức ăn thủy sản, diện tích nuôi, năng suất, sản lượng, hình thức nuôi,... Ngoài ra, các số liệu từ báo cáo tổng kết đề tài, dự án, báo cáo hội thảo, bài báo về hoạt động cung ứng và sử dụng thức ăn thủy sản cũng được tham khảo. Số liệu so cấp được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp cán bộ quản lý nuôi trồng thủy sản các cấp. Tiến hành điều tra theo phương pháp đánh giá nông thôn nhanh (RRA) và phương pháp điều tra qua ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm He tại tỉnh Quảng Nam Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC HIỆN TRẠNG CUNG ỨNG VÀ SỬ DỤNG THỨC ĂN NUÔI TÔM HE TẠI TỈNH QUẢNG NAM CURRENT STATUS OF PENAEID SHRIMP FEED SUPPLY AND ULTILIZATION IN QUANG NAM PROVINCE Nguyễn Minh Phương1, Lại Văn Hùng2 Ngày nhận bài: 25/10/2012; Ngày phản biện thông qua: 04/01/2013; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013 TÓM TẮT Nghiên cứu hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm he (Penaeidae) được thực hiện trong năm 2010 và 2011 tại Quảng Nam. Tiến hành điều tra bằng phương pháp đánh giá nông thôn nhanh (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu (SQ) các chủ hộ kinh doanh thức ăn thủy sản (38/42 hộ) và các hộ nuôi tôm he (65/189 hộ). Các thông tin thu thập bao gồm: thông tin về chủ hộ kinh doanh thức ăn, phương thức quản lý, hiện trạng nuôi tôm, sử dụng thức ăn, những khó khăn của chủ hộ kinh doanh thức ăn tôm và nuôi tôm,... Kết quả điều tra cho thấy, đa số hộ kinh doanh thức ăn và nuôi tôm có trình độ khá cao. Các chủ hộ kinh doanh thức ăn chủ yếu là các đại lý cấp 1, kinh doanh nhiều mặt hàng thức ăn và thuốc thú y thủy sản. Hầu hết chủ hộ kinh doanh thức ăn có tham gia nuôi tôm he chân trắng (90%). Cả chủ hộ kinh doanh và người nuôi đều được hưởng nhiều chính sách ưu đãi từ công ty thức ăn như thưởng theo doanh số và chiết khấu khi mua hàng. Thức ăn cho tôm he chân trắng có hàm lượng protein 37 - 42%. Các hộ kinh doanh cơ bản đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh theo quy định tuy nhiên nhận thức và thực hiện các văn bản pháp quy còn hạn chế. Hầu hết các hộ nuôi chỉ nuôi tôm he chân trắng với hình thức thâm canh và bán thâm canh. Sau 3 tháng nuôi, hệ số thức ăn là 1,2, năng suất bình quân đạt được 12,1 tấn/ha/năm. Từ khóa: hộ kinh doanh, hộ nuôi tôm, Quảng Nam, sử dụng, tôm he, tôm he chân trắng ABSTRACT The survey on the current status of penaeid shrimp (Penaeidae) feed supply and ultilization was carried out between 2010 and 2011 in Quang Nam province. The methods of Rapid Rural Appraisal (RRA) and Survey Questionaire (SQ) were used to collect information related to shrimp feed dealers (38/42 dealers) and shrimp farmers (65/189 farmers). The collected data included information about dealers, management, shrimp farming, feed ultilization, and difficulties of dealers and shrimp farmers,... The results showed that most of the dealers and shrimp farmers had high academic standard. Most of the dealers were first class dealers who traded variety of products of shrimp feeds and aquatic veterinary medicines. Most dealers participated in whiteleg shrimp farming which accounted for 90%. Both dealers and shrimp farmers recieved many preferential treatments from feed comnpanies such as rewarding in accordance with sales and discounts when purchasing feeds. The protein contents in the whiteleg shrimp feeds ranged from 37 - 42%. The dealers basically satisfied the business requirements according to regulations, however, their awareness and implementation of legal regulations were still very limited. Most of the farmers cultured whiteleg shrimp by intensive and semi-intensive models. After 3 months, the food conversion ratio was 1,2, and the average annual productivity was about 12,1 tons/ha. Keywords: feed dealers, penaeid shrimp, Quang Nam, shrimp farmers, ultilization, whiteleg shrimp 1 2 Nguyễn Minh Phương: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang PGS.TS. Lại Văn Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 78 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghề nuôi tôm he, với 2 đối tượng nuôi chính là tôm sú (Penaeus monodon Fabricius, 1798) và tôm he chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931), ở nước ta phát triển rất mạnh mẽ trong những năm gần đây và đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của ngành Thủy sản. Đồng thời, nó cũng giúp giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nhiều ngư dân [12]. Tôm he chân trắng thể hiện được nhiều ưu điểm nổi bật ngay từ khi được di nhập và nuôi thử nghiệm ở nước ta năm 2001 như: sinh trưởng nhanh, thời gian nuôi ngắn, năng suất cao và thích ứng tốt với các yếu tố môi trường [8, 9, 13]. Do vậy, đây là đối tượng đang được nuôi phổ biến ở nhiều địa phương, trong đó có Quảng Nam thay thế cho các diện tích nuôi tôm sú không hiệu quả và các vùng đất cát hoang hóa [3, 6]. Từ năm 2005 đến năm 2011, diện tích nuôi tôm he chân trắng cả nước tăng rất nhanh từ 1.598 ha lên 25.397 ha [1, 12]. Trong nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu chi phí sản xuất, chiếm từ 55 - 65% [7]. Hơn nữa, do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mặt trái của kinh tế thị trường và những bất cập trong quản lý giá cả đã đẩy giá thức ăn không ngừng tăng cao gây ra rất nhiều khó khăn cho người nuôi. Sự đa dạng về chủng loại thức ăn nuôi tôm, cùng với sự yếu kém trong quản lý chất lượng từ các cơ quan chức năng và hệ thống văn bản pháp quy chưa phù hợp,... cũng là những nguyên nhân làm cho việc quản lý chất lượng thức ăn kém hiệu quả [5, 10]. Nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp các thông tin về hiện trạng cung ứng và sử dụng thức ăn nuôi tôm he tại Quảng Nam. Đây cũng chính là cơ sở để các cơ quan chức năng ngành Thủy sản đưa ra các chính sách nhằm quản lý tốt hơn các hoạt động cung ứng và sử dụng các sản phẩm này. Số 3/2013 Quảng Nam, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện Thăng Bình, Núi Thành và thành phố Tam Kỳ. Số liệu thu thập bao gồm: số lượng hộ kinh doanh thức ăn thủy sản, diện tích nuôi, năng suất, sản lượng, hình thức nuôi,... Ngoài ra, các số liệu từ báo cáo tổng kết đề tài, dự án, báo cáo hội thảo, bài báo về hoạt động cung ứng và sử dụng thức ăn thủy sản cũng được tham khảo. Số liệu so cấp được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp cán bộ quản lý nuôi trồng thủy sản các cấp. Tiến hành điều tra theo phương pháp đánh giá nông thôn nhanh (RRA) và phương pháp điều tra qua ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hiện trạng cung ứng Sử dụng thức ăn nuôi tôm He Nuôi tôm He Tỉnh Quảng Nam Hộ kinh doanh Hộ nuôi tômGợi ý tài liệu liên quan:
-
2 trang 128 0 0
-
Thủ tục mua hoá đơn lần đầu đối với hộ kinh doanh
3 trang 123 0 0 -
3 trang 107 0 0
-
Bài giảng Luật kinh doanh: Chương 2 (phần 2) - Pháp luật về chủ thể kinh doanh
14 trang 64 0 0 -
3 trang 51 0 0
-
2 trang 39 0 0
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 trang 39 0 0 -
26 trang 38 0 0
-
Khai thuế khoán áp dụng cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh
2 trang 35 0 0 -
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kinh tế phát triển: Phát triển lâm nghiệp tại huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam
26 trang 33 0 0