Hiện trạng rừng ngập mặn và xác định các loài thực vật trồng ở khu vực cửa sông, ven biển tỉnh Nghệ An.
Số trang: 5
Loại file: doc
Dung lượng: 104.50 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Rừng ngập mặn là hệ sinh thái quan trọng có năng suất sinh học cao ở vùng cửa sông ven biển nhiệt đới. Rừng ngập mặn không những nơi cung cấp nhiều lâm sản có giá trị, mà còn là nơi sống và ươm giống của nhiều loài thủy sản, chim nước, chim di cư và một số động vật ở cạn như khỉ, cá sấu, lợn rừng, kỳ đà, chồn…
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiện trạng rừng ngập mặn và xác định các loài thực vật trồng ở khu vực cửa sông, ven biển tỉnh Nghệ An. Hiện trạng rừng ngập mặn và xác định các loài thực vật trồng ở khu vực cửa sông, ven biển tỉnh Nghệ An. Phạm Hồng Ban - Khoa Sinh học, Đại học Vinh Thành viên mạng lưới SURDM 1. Đặt vất đềRừng ngập mặn là hệ sinh thái quan trọng có năng suất sinh học cao ở vùng cửa sông venbiển nhiệt đới. Rừng ngập mặn không những nơi cung cấp nhiều lâm sản có giá trị, màcòn là nơi sống và ươm giống của nhiều loài thủy sản, chim nước, chim di cư và một sốđộng vật ở cạn như khỉ, cá sấu, lợn rừng, kỳ đà, chồn…Ngoài việc cung cấp thức ăn, bãi đẻ, rừng ngập mặn còn là nơi phát triển nghề nuôi trồngthủy sản. Đây là một ngành đưa lại kinh tế cao và là nguồn xuất khẩu có giá trị. Bên cạnhđó, rừng ngập mặn còn có rất nhiều chức năng quan trọng như điều hòa nhiệt độ, hạn chếxói lở, xâm nhập mặn bảo vệ đê điều, đồng ruộng, nơi sống của người dân ven biển trướcsự tàn phá của gió bão, nước biển dâng. Tuy nhiên, rừng ngập mặn là hệ sinh thái nhạycảm với tác động của con người và thiên nhiên.Ở Nghệ An, do hiện tượng dắp bờ nhằm tăng diện tích đất sản xuất nông nghiệp vàphong trào nuôi tôm nổi lên rầm rộ khắp mọi nơi, nhiều cánh rừng ngập mặn bị tàn phánặng nề. Đến năm 1985 hầu như rừng ngập mặn bị phá gần hết chỉ còn sót lại cảnh rừngbần ở xã Hưng Hòa. Việc bảo tồn và phục hồi rừng ngập mặn có ý nghĩa vô cùng to lớntrong việc phát triển kinh tế nhân dân vùng biển. Do đó, muốn phát triển nuôi trông thủysản bền vững thì một trong những biện pháp cơ bản nhất là bảo vệ và phát triển rừngngập mặn ở các cửa sông ven biển.Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài: Hiện trạng rừng ngập mặn và xác địnhcác loài thực vật trồng ở khu vực cửa sông, ven biển tỉnh Nghệ An”.Với đề tài này, chúng tôi hy vọng có thể góp phần nào cho việc định hướng khôi phục lạirừng ngập mặn ở Nghệ An, đồng thời góp phần phát triển nghề nuôi trồng thủy sản tỉnhnhà, bảo vệ được nguồn lợi, môi trường và phát triển bền vững.1: Phương pháp nghiên cứu - Điều tra theo tuyến: dùng thuyền máy chạy dọc sông và đi theo bờ đê nhằm thu mẫu về thành phần loài thực vật rừng ngập mặn. - Điều tra theo ô tiêu chuẩn để xác định các loài thực vật (40 m x 40 m) sử dụng máy định vị GPS để đi khảo sát thực địa. Vùng hiện trạng rừng ngập mặn và vùng trồng mới được cập nhật trên bản đồ, sau đó được số hóa dựa trên bản đồ có sẵn. Kết quả giao lại cho cơ quan chức năng phục vụ cho công tác quản lý trong tương lai. 1II. Kết quả và thảo luận1. Diện tích rừng ngập mặn hiện có ở Nghệ AnTrên toàn tỉnh Nghệ An, diện tích rừng ngập mặn hiện có là 819,6 ha được phân bổ nhưsau:Bảng 1: Diện tích rừng ngập mặnTT DT sử dụng Quỳnh Lưu Diện Châu Nghi Lộc Vinh Hưng đ ất (ha) (ha) (ha) (ha) Nguyên (ha)1 RNM 343,8 260 160 55,8 02 NTTS 803,5 187,9 104,5 93,15 110Rừng ngập mặn Nghệ An phân bổ chủ yếu dọc theo các con sông lớn bắt nguồn từ 6 cửalạch (Lạch Cờn, Lạch Quèn, Lạch Thơi, Lạch Vạn, Cửa Lò và Cửa Hội).Năm 1985, do phong trào nuôi tôm nổi lên rầm rộ, đắp bờ để làm lúa, rừng ngập mặn bịtàn phá. Việc khai thác nguồn lợi hải sản tăng quá mức sẽ dẫn đến hậu quả không thểlường trước được về nguồn lợi và môi trường. Đến năm 1994, được sự hỗ trợ của HộiChữ thập Đỏ Nhật Bản, toàn tỉnh Nghệ An tiến hành trồng rừng ngập mặn và đã có nhữngthành công đáng kể. Rừng ngập mặn chiếm diện tích nhiều nhất là ở huyện Quỳnh Lưu vàsau đó là huyện Diễn Châu với các loài thực vật ưu thể là: đước vòi ( Rhizophora stysola)và cây trang (Kandelia kande), còn ở Hưng Hòa chỉ với diện tích nhỏ là 55,83 ha chủ yếulà loài bần chua (Sonneratia caseolarris) trên các bãi bôi từ các cửa lạch Lạch Cờn, LạchQuèn, Lạch Thơi, Lạch Vạn, quần thể mắn biển mọc thuần loại vì ở đây độ mặn khá caotừ 25-30%o, đất cát chiếm tỷ lệ khá cao chỉ có quần thể mắm mới sống được trên nền đấtcát đó. Trên bãi triều cao có nhiều cát thì loài muống biển (Ipomaea pes carpae) xâm nhậptạo thành thảm tươi dọc ven sông, biển. Ở các bãi triều ngập trung bình, giàu mùn, đất bùnsét có nhiều mùn, bã hữu cơ như ở Quỳnh Lương, Quỳnh Thanh, Quỳnh Bảng, QuỳnhMinh, Diễn Kim và Diễn Bích, thành phần loài cây phức tạp hơn tạo thành một quần xãhỗn hợp như:Đước vòi (Rhizophora stylosa) vẹt dù (Bruguiera gymnorhiza), trang (Kandelia candel)thỉnh thoảng gặp một vài cá thể của loài sú (Aegiceras corniculatum) ô rô lá to (Acanthusiliciforlius) các vùng đất cao như gò đồi, ven đê… cây ưu thế vẫn là ráng biển(Acrosstichum aureum), vạng hôi (Clerodendron in ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiện trạng rừng ngập mặn và xác định các loài thực vật trồng ở khu vực cửa sông, ven biển tỉnh Nghệ An. Hiện trạng rừng ngập mặn và xác định các loài thực vật trồng ở khu vực cửa sông, ven biển tỉnh Nghệ An. Phạm Hồng Ban - Khoa Sinh học, Đại học Vinh Thành viên mạng lưới SURDM 1. Đặt vất đềRừng ngập mặn là hệ sinh thái quan trọng có năng suất sinh học cao ở vùng cửa sông venbiển nhiệt đới. Rừng ngập mặn không những nơi cung cấp nhiều lâm sản có giá trị, màcòn là nơi sống và ươm giống của nhiều loài thủy sản, chim nước, chim di cư và một sốđộng vật ở cạn như khỉ, cá sấu, lợn rừng, kỳ đà, chồn…Ngoài việc cung cấp thức ăn, bãi đẻ, rừng ngập mặn còn là nơi phát triển nghề nuôi trồngthủy sản. Đây là một ngành đưa lại kinh tế cao và là nguồn xuất khẩu có giá trị. Bên cạnhđó, rừng ngập mặn còn có rất nhiều chức năng quan trọng như điều hòa nhiệt độ, hạn chếxói lở, xâm nhập mặn bảo vệ đê điều, đồng ruộng, nơi sống của người dân ven biển trướcsự tàn phá của gió bão, nước biển dâng. Tuy nhiên, rừng ngập mặn là hệ sinh thái nhạycảm với tác động của con người và thiên nhiên.Ở Nghệ An, do hiện tượng dắp bờ nhằm tăng diện tích đất sản xuất nông nghiệp vàphong trào nuôi tôm nổi lên rầm rộ khắp mọi nơi, nhiều cánh rừng ngập mặn bị tàn phánặng nề. Đến năm 1985 hầu như rừng ngập mặn bị phá gần hết chỉ còn sót lại cảnh rừngbần ở xã Hưng Hòa. Việc bảo tồn và phục hồi rừng ngập mặn có ý nghĩa vô cùng to lớntrong việc phát triển kinh tế nhân dân vùng biển. Do đó, muốn phát triển nuôi trông thủysản bền vững thì một trong những biện pháp cơ bản nhất là bảo vệ và phát triển rừngngập mặn ở các cửa sông ven biển.Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài: Hiện trạng rừng ngập mặn và xác địnhcác loài thực vật trồng ở khu vực cửa sông, ven biển tỉnh Nghệ An”.Với đề tài này, chúng tôi hy vọng có thể góp phần nào cho việc định hướng khôi phục lạirừng ngập mặn ở Nghệ An, đồng thời góp phần phát triển nghề nuôi trồng thủy sản tỉnhnhà, bảo vệ được nguồn lợi, môi trường và phát triển bền vững.1: Phương pháp nghiên cứu - Điều tra theo tuyến: dùng thuyền máy chạy dọc sông và đi theo bờ đê nhằm thu mẫu về thành phần loài thực vật rừng ngập mặn. - Điều tra theo ô tiêu chuẩn để xác định các loài thực vật (40 m x 40 m) sử dụng máy định vị GPS để đi khảo sát thực địa. Vùng hiện trạng rừng ngập mặn và vùng trồng mới được cập nhật trên bản đồ, sau đó được số hóa dựa trên bản đồ có sẵn. Kết quả giao lại cho cơ quan chức năng phục vụ cho công tác quản lý trong tương lai. 1II. Kết quả và thảo luận1. Diện tích rừng ngập mặn hiện có ở Nghệ AnTrên toàn tỉnh Nghệ An, diện tích rừng ngập mặn hiện có là 819,6 ha được phân bổ nhưsau:Bảng 1: Diện tích rừng ngập mặnTT DT sử dụng Quỳnh Lưu Diện Châu Nghi Lộc Vinh Hưng đ ất (ha) (ha) (ha) (ha) Nguyên (ha)1 RNM 343,8 260 160 55,8 02 NTTS 803,5 187,9 104,5 93,15 110Rừng ngập mặn Nghệ An phân bổ chủ yếu dọc theo các con sông lớn bắt nguồn từ 6 cửalạch (Lạch Cờn, Lạch Quèn, Lạch Thơi, Lạch Vạn, Cửa Lò và Cửa Hội).Năm 1985, do phong trào nuôi tôm nổi lên rầm rộ, đắp bờ để làm lúa, rừng ngập mặn bịtàn phá. Việc khai thác nguồn lợi hải sản tăng quá mức sẽ dẫn đến hậu quả không thểlường trước được về nguồn lợi và môi trường. Đến năm 1994, được sự hỗ trợ của HộiChữ thập Đỏ Nhật Bản, toàn tỉnh Nghệ An tiến hành trồng rừng ngập mặn và đã có nhữngthành công đáng kể. Rừng ngập mặn chiếm diện tích nhiều nhất là ở huyện Quỳnh Lưu vàsau đó là huyện Diễn Châu với các loài thực vật ưu thể là: đước vòi ( Rhizophora stysola)và cây trang (Kandelia kande), còn ở Hưng Hòa chỉ với diện tích nhỏ là 55,83 ha chủ yếulà loài bần chua (Sonneratia caseolarris) trên các bãi bôi từ các cửa lạch Lạch Cờn, LạchQuèn, Lạch Thơi, Lạch Vạn, quần thể mắn biển mọc thuần loại vì ở đây độ mặn khá caotừ 25-30%o, đất cát chiếm tỷ lệ khá cao chỉ có quần thể mắm mới sống được trên nền đấtcát đó. Trên bãi triều cao có nhiều cát thì loài muống biển (Ipomaea pes carpae) xâm nhậptạo thành thảm tươi dọc ven sông, biển. Ở các bãi triều ngập trung bình, giàu mùn, đất bùnsét có nhiều mùn, bã hữu cơ như ở Quỳnh Lương, Quỳnh Thanh, Quỳnh Bảng, QuỳnhMinh, Diễn Kim và Diễn Bích, thành phần loài cây phức tạp hơn tạo thành một quần xãhỗn hợp như:Đước vòi (Rhizophora stylosa) vẹt dù (Bruguiera gymnorhiza), trang (Kandelia candel)thỉnh thoảng gặp một vài cá thể của loài sú (Aegiceras corniculatum) ô rô lá to (Acanthusiliciforlius) các vùng đất cao như gò đồi, ven đê… cây ưu thế vẫn là ráng biển(Acrosstichum aureum), vạng hôi (Clerodendron in ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ƯỚC TÍNH TRỮ LƯỢNG CARBON CỦA RỪNG
10 trang 248 0 0 -
Phương pháp thu hái quả đặc sản Nam bộ
3 trang 152 0 0 -
Đề xuất lựa chọn phương pháp nghiên cứu đánh giá giá trị kinh tế các hệ sinh thái biển Việt Nam
7 trang 146 0 0 -
Tiểu luận: Bảo vệ động vật hoang dã
28 trang 112 0 0 -
Mô hình nuôi tôm sinh thái ở đồng bằng sông Cửu Long
7 trang 98 0 0 -
Hướng dẫn kỹ thuật trồng lát hoa
20 trang 95 0 0 -
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chăn nuôi
4 trang 84 0 0 -
Quyết định số 71/2012/QĐ-UBND
3 trang 83 0 0 -
Quyết định số 73/2012/QĐ-UBND
8 trang 73 0 0 -
10 trang 71 0 0