Hiện trạng và biện pháp cải thiện chất lượng đàn cá rô phi nuôi - Ts. Phạm Thanh Liêm, Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ Cá rô phi được nuôi rộng rãi trên thế giới với sản lượng hàng năm vào khoảng 2,8 triệu tấn (FishStat, 2008). Đây là loài cá mau lớn, dễ nuôi, ít dịch bệnh và có thể nuôi trong nhiều loại hình thủy vực khác nhau.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiện trạng và biện pháp cải thiện chất lượng đàn cá rô phi nuôi Hiện trạng và biện pháp cải thiện chất lượng đàn cá rô phi nuôiHiện trạng và biện pháp cải thiện chất lượng đàn cá rô phinuôi - Ts. Phạm Thanh Liêm, Khoa Thủy sản – Đại họcCần ThơCá rô phi được nuôi rộng rãi trên thế giới với sản lượnghàng năm vào khoảng 2,8 triệu tấn (FishStat, 2008). Đây làloài cá mau lớn, dễ nuôi, ít dịch bệnh và có thể nuôi trongnhiều loại hình thủy vực khác nhau. Trước đây, cá rô phithường được nuôi ghép với các loài cá khác trong ao haytrên ruộng lúa nhằm sử dụng hết nguồn thức ăn trong thủyvực. Tuy nhiên, với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường,hiện nay cá rô phi hầu như được nuôi thâm canh trong aohay bè. Sản lượng cá rô phi ở nước ta khoảng 50 ngàn tấn,chiếm 2,2% tổng sản lượng thủy sản nuôi (FishStat, 2008).Hiện trạng đàn cá rô phi nuôi ở Đồng bằng sông Cửu LongCó 3 loài cá rô phi được di nhập vào Việt nam. Cá rô phiđen Oreochromis mossambicus là một trong những loài cáđược di nhập sớm nhất (1951), nhưng do thành thục sớm vàchu kỳ sản ngắn khiến cho mật độ cá nuôi trong ao trở nêndày đặc, cá giảm tăng trưởng, kích thước nhỏ và sản lượngthấp. Cá rô phi vằn O. niloticus được nhập từ Đài Loan vàonăm 1973 đã nhanh chóng trở thành loài cá nuôi quan trọngnhờ tăng trưởng nhanh và có kích thước thương phẩm lớn(Nguyễn Công Dân và ctv, 2000). Đến năm 1996, cá rô phixanh O. aureus đã được di nhập vào Việt Nam để phục vụcho các nghiên cứu tạo dòng cá rô phi có khả năng chịulạnh và sản xuất cá rô phi đơn tính đực thông qua kỹ thuậtlai tạo (Bạch Thị Tuyết và ctv, 2000).Bên cạnh 3 loài cá trên, nhiều dòng cá rô phi khác cũng đãđược di nhập vào nước ta. Năm 1994, cá rô phi vằn dòngAi cập, dòng Thái Lan và cá rô phi dòng GIFT (GeneticallyImproved of Farm Tilapia) được di nhập vào nuôi thửnghiệm ở nước ta, kết quả nuôi cho thấy cá rô phi GIFT cótốc độ tăng trưởng cao hơn 15-20% so với các dòng cá bảnđịa. Năm 1997, cá rô phi siêu đực dòng Egypt-Swans đượcdi nhập cho thử nghiệm sản xuất cá rô phi đơn tính đực.Kết quả lai giữa cá siêu đực dòng Egypt-Swans với cá cáidòng GIFT cho tỉ lệ cá đực lên đến 97%.Cá rô phi đỏ (rô phi lai Oreochromis spp.) cũng là một đốitượng nuôi được ưa chuộng hiện nay ở Việt Nam vì có màusắc đẹp, thịt ngon và tăng trưởng nhanh. Cá được di nhậplần đầu tiên vào năm 1991 từ Thái Lan. Do nhu cầu ngàycàng tăng, các dòng cá rô phi đỏ Israel và Malaysia cũng đãđược di nhập vào những năm 1995-1996. Nhiều cơ sở nuôicũng đã nhập cá rô phi đỏ từ Philippines và Cuba (NguyễnVăn Tư, 2003).Trở ngại lớn nhất trong việc nuôi cá rô phi ở Việt Nam nóichung và Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riênglà tỉ lệ cá đạt kích cỡ thương phẩm (hơn 500g/con) thấp docon giống kém chất lượng và những yếu kém trong quản lýđàn cá bố mẹ. Đặc điểm chung của các đàn cá rô phi nuôihiện nay ở ĐBSCL là đồng huyết ở mức độ cao và tính đadạng di truyền thấp do sử dụng quần đàn cá nhập nội có sốlượng cá thể ít làm cá bố mẹ cho sinh sản. Mặt khác, khảnăng sinh sản cao và tính dễ dàng tạp lai với nhau giữa cácloài cá rô phi làm cho tiến trình di nhập gen từ loài nàysang loài khác xảy ra nhanh chóng kết quả là làm thay đổicấu trúc di truyền của quần thể và tạp nhiễm nguồn gen. Sựtạp lai giữa O. niloticus và O. mossambicus ở miền Namvào những năm 1980 và thiếu các kỹ thuật quản lý sinh sảnđã tạo ra các quần thể cá lai kém chất lượng với tăngtrưởng chậm, sinh sản kém và kích thước thương phẩm nhỏ(Nguyễn Văn Tư, 2003). Điều này khiến cho nghề nuôi cárô phi không phát triển được trong một thời gian dài. Đểphát triển nghề nuôi, các cơ quan nghiên cứu và nhà sảnxuất đã di nhập nhiều dòng cá chất lượng cao như cá rô phivằn dòng Ai cập, Thái lan, Đài loan, Philippines, dòngGIFT… nhằm cải thiện chất lượng của các đàn cá nuôi hiệncó thông qua phương pháp lai tạo (lai chéo và lai xa) vàchọn lọc. Tuy nhiên, các trại sản xuất giống và người nuôithường có thói quen sử dụng các dòng cá hiện có mà khôngquan tâm đến nguồn gốc, sự biểu hiện các tính trạng và khảnăng tái lập quần đàn. Nếu việc di nhập và phân phối cácdòng cá chất lượng cao thiếu sự giám sát, quản lý nguồngốc và kỹ thuật lưu giữ các dòng thuần chủng thì việc tạpnhiễm nguồn gen và suy giảm chất lượng đàn cá nuôi sẽxảy ra nhanh chóng. Kết quả khảo sát cá rô phi đỏ nuôi ởĐồng Tháp, Vĩnh Long và Tiền Giang cho thấy tần số xuấthiện cá có đốm đen trung bình là 2,4%, nhiều cơ sở nuôi ởĐồng Tháp cá có tần số xuất hiện đốm đen lên đến 10%,đây là một biểu hiện phân ly tính trạng khi sử dụng con lailàm cá bố mẹ.Một số biện pháp cải thiện chất lượng đàn cá rô phi nuôiViệc phát triển các dòng cá rô phi được cải thiện về ditruyền và lưu giữ để phục vụ cho việc sản xuất con giốngcung cấp cho người nuôi là việc làm cần thiết và hiệu quảnhằm phát triển bền vững nghề nuôi cá rô phi ở ĐBSCL.Các kỹ thuật cải thiện chất lượng giống có thể được ápdụng trong chọn giống cá rô phi ...