Hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam: So sánh giữa ngân hàng có và không có sở hữu nước ngoài
Số trang: 17
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.20 MB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả hoạt động của các NHTMCP có sở hữu nước ngoài và các NHTMCP không có vốn đầu tư nước ngoài. Dựa trên việc phân tích định tính các chỉ tiêu liên quan đến mối quan hệ thu nhập - chi phí của hai nhóm ngân hàng và phân tích định lượng theo cách tiếp cận đánh giá hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp bao dữ liệu (DEA). Dữ liệu
cho nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 26 ngân hàng TMCP Việt Nam, giai đoạn 2008-2013.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam: So sánh giữa ngân hàng có và không có sở hữu nước ngoài Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM: SO SÁNH GIỮA NGÂN HÀNG CÓ VÀ KHÔNG CÓ SỞ HỮU NƯỚC NGOÀI Nguyễn Thị Diễm Hiền*, Tô Thị Thanh Trúc**, Lê Duy Khánh*** TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả hoạt động của các NHTMCP có sở hữu nước ngoài và các NHTMCP không có vốn đầu tư nước ngoài. Dựa trên việc phân tích định tính các chỉ tiêu liên quan đến mối quan hệ thu nhập – chi phícủa hai nhóm ngân hàng và phân tích định lượng theo cách tiếp cận đánh giá hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp bao dữ liệu (DEA). Dữ liệu cho nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 26 ngân hàng TMCP Việt Nam, giai đoạn 2008-2013. Kết quả phân tích định tính quan hệ thu nhập-chi phí cho thấy không có sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm ngân hàng, nhưng kết quả phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật thể hiệnngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao hơn. Từ khóa: ngân hàng thương mại cổ phần, hiệu quả hoạt động, hiệu quả chi phí, DEA THE EFFICIENCY OF VIETNAMESE JOINT - STOCK COMMERCIAL BANKS: A COMPARISON BETWEEN BANKS WITH AND WITHOUT FOREIGN EQUITY ABSTRACT The paper aims to compare the efficiency of joint-stock commercial banks that partially owned by foreign investors with totally domestically owned banks of that type, based on the analysis of incomes and costs of two groups and data envelopment analysis of technical efficiency. The data is collected from the financial statements of 26 Vietnamese stock commercial banks over the period from 2008 to 2013. The results of qualitative analysis of incomes and costs do not support the hypothesis that partly foreign owned banks are more efficient than the banks completely owned by Vietnamese, while the quantitative analysis of technical efficiency presents a better performance of banks with foreign equity. Key words: Joint-stock Commercial Bank, Performance, Costs Efficiency, DEA ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM *** ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM * ** 114 Hiệu quả hoạt động . . . 1. GIỚI THIỆU Trong khoảng 10 năm trở lại đây, hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đã có một số thay đổi đáng kể. Thứ nhất, đó là việc các Ngân hàng thương mại cổ phần mới ra đời bên cạnh các ngân hàng thực hiện cơ cấu lại. Thứ hai, Việt Nam mở rộng việc hội nhập quốc tế thông qua việc ký kết các Hiệp ước quốc tế, gia nhập WTO đã tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam. Nhiều NHTMCP đã thực hiện bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài với mong muốn ngoài việc tăng năng lực về vốn thì với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong cơ chế thị trường ở những nước phát triển, nhà đầu tư nước ngoài còn có thể chuyển giao công nghệ, hỗ trợ hoạt động cho các ngân hàng dựa trên những lợi thế họ có được.Chính vì vậy, những nghiên cứu nhằm xem xét liệu việc tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào cơ cấu sở hữu có giúp các NHTMCP hoạt động hiệu quả hơn hay không là rất cần thiết để có thể đưa ra những khuyến nghị thích hợp trong xu thế hội nhập ngày nay. 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN DỮ LIỆU Bài báo nghiên cứu sự khác biệt về hiệu quả hoạt động giữa các NHTMCP có vốn đầu tư nước ngoài và các NHTMCP không có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 -2013,thông qua phân tích định tính các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kỹ thuật và phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật của các NHTM. Do giới hạn về mặt số liệu, nghiên cứu sử dụng số liệu của 26 NHTMCP của Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2013, các dữ liệu này được tập hợp từ báo cáo tài chính giai đoạn 2008-2013 của các ngân hàng. Trong số các NHTMCP được đưa vào phân tích, tại thời điểm cuối năm 2013, có 13 ngân hàng có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn chủ sở hữu(xem phụ lục) với tỷ lệ từ 4,74% (STB) đến 30,00% (ABBank, ACB), còn lại là các NH được sở hữu hoàn toàn bởi cổ đông trong nước. Có 3 ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nước ngoài dưới 20% gồm SHB, STB, VCB; còn lại là các ngân hàng có vốn chủ sở hữu nước ngoài chiếm tỷ trọng từ 20% đến 30%. 3. KHÁI NIỆM HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN Hiệu quả hoạt động của ngân hàng được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau và được đề cập đến trong nhiều tài liệu bao gồm hiệu quả tài chính, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kinh tế. Trong đó hiệu quả kỹ thuật là việc đạt được các đầu ra cực đại từ các đầu vào giới hạn hoặc cực tiểu hóa việc sử dụng đầu vào để đạt một mức đầu ra nhất định (Berger và De Young, 1997) Rất nhiều nghiên cứu đánh giá hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng khi có sự tham gia của vốn đầu tư nước ngoài so với các ngân hàng nội địa đã được tiến hành. Kết quả các nghiên cứu trước đây về vấn đề này không nhất quán với nhau, một số nghiên cứu cho thấy tác động tích cực của vốn sở hữu nước ngoài đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, trong khi một số nghiên cứu khác cho kết quả ngược lại. Bhattacharyya, Lovell, and Sahay (1997) đã tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động của 70 ngân hàng của Ấn Độ trong giai đoạn 1986 – 1991. Kết quả ước lượng bằng phương pháp bao dữ liệu (DEA) cho thấy các ngân hàng nước ngoài có hiệu quả hơn so với các ngân hàng tư nhân, song các ngân hàng thương mại nhà nước lại có hiệu quả hơn cả hai nhóm ngân hàng kia. 115 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Trong khi đó, Semih Yildirim and Philippatos (2007) tiến hành nghiên cứu thực nghiệm hệ thống ngân hàng của 12 quốc gia chuyển đổi ở Trung và Đông Âu, giai đoạn 1993 – 2000. Kết quả ước lượng bằng phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (stochastic frontier approach - SFA) và phương pháp tiếp cận phi phân phối (distribution-free approachDFA) cho thấy các ngân hàng nước ngoài có hiệu quả về mặt chi phí hơn song lại kém hiệu quả hơn về mặt lợi nhuận so với các ngân hàng nội địa. Bonin, Hasan, and Wachtel ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam: So sánh giữa ngân hàng có và không có sở hữu nước ngoài Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM: SO SÁNH GIỮA NGÂN HÀNG CÓ VÀ KHÔNG CÓ SỞ HỮU NƯỚC NGOÀI Nguyễn Thị Diễm Hiền*, Tô Thị Thanh Trúc**, Lê Duy Khánh*** TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả hoạt động của các NHTMCP có sở hữu nước ngoài và các NHTMCP không có vốn đầu tư nước ngoài. Dựa trên việc phân tích định tính các chỉ tiêu liên quan đến mối quan hệ thu nhập – chi phícủa hai nhóm ngân hàng và phân tích định lượng theo cách tiếp cận đánh giá hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp bao dữ liệu (DEA). Dữ liệu cho nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 26 ngân hàng TMCP Việt Nam, giai đoạn 2008-2013. Kết quả phân tích định tính quan hệ thu nhập-chi phí cho thấy không có sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm ngân hàng, nhưng kết quả phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật thể hiệnngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao hơn. Từ khóa: ngân hàng thương mại cổ phần, hiệu quả hoạt động, hiệu quả chi phí, DEA THE EFFICIENCY OF VIETNAMESE JOINT - STOCK COMMERCIAL BANKS: A COMPARISON BETWEEN BANKS WITH AND WITHOUT FOREIGN EQUITY ABSTRACT The paper aims to compare the efficiency of joint-stock commercial banks that partially owned by foreign investors with totally domestically owned banks of that type, based on the analysis of incomes and costs of two groups and data envelopment analysis of technical efficiency. The data is collected from the financial statements of 26 Vietnamese stock commercial banks over the period from 2008 to 2013. The results of qualitative analysis of incomes and costs do not support the hypothesis that partly foreign owned banks are more efficient than the banks completely owned by Vietnamese, while the quantitative analysis of technical efficiency presents a better performance of banks with foreign equity. Key words: Joint-stock Commercial Bank, Performance, Costs Efficiency, DEA ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM *** ThS., GV Khoa TCNH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM * ** 114 Hiệu quả hoạt động . . . 1. GIỚI THIỆU Trong khoảng 10 năm trở lại đây, hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đã có một số thay đổi đáng kể. Thứ nhất, đó là việc các Ngân hàng thương mại cổ phần mới ra đời bên cạnh các ngân hàng thực hiện cơ cấu lại. Thứ hai, Việt Nam mở rộng việc hội nhập quốc tế thông qua việc ký kết các Hiệp ước quốc tế, gia nhập WTO đã tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam. Nhiều NHTMCP đã thực hiện bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài với mong muốn ngoài việc tăng năng lực về vốn thì với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong cơ chế thị trường ở những nước phát triển, nhà đầu tư nước ngoài còn có thể chuyển giao công nghệ, hỗ trợ hoạt động cho các ngân hàng dựa trên những lợi thế họ có được.Chính vì vậy, những nghiên cứu nhằm xem xét liệu việc tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào cơ cấu sở hữu có giúp các NHTMCP hoạt động hiệu quả hơn hay không là rất cần thiết để có thể đưa ra những khuyến nghị thích hợp trong xu thế hội nhập ngày nay. 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN DỮ LIỆU Bài báo nghiên cứu sự khác biệt về hiệu quả hoạt động giữa các NHTMCP có vốn đầu tư nước ngoài và các NHTMCP không có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 -2013,thông qua phân tích định tính các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kỹ thuật và phân tích định lượng hiệu quả kỹ thuật của các NHTM. Do giới hạn về mặt số liệu, nghiên cứu sử dụng số liệu của 26 NHTMCP của Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2013, các dữ liệu này được tập hợp từ báo cáo tài chính giai đoạn 2008-2013 của các ngân hàng. Trong số các NHTMCP được đưa vào phân tích, tại thời điểm cuối năm 2013, có 13 ngân hàng có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn chủ sở hữu(xem phụ lục) với tỷ lệ từ 4,74% (STB) đến 30,00% (ABBank, ACB), còn lại là các NH được sở hữu hoàn toàn bởi cổ đông trong nước. Có 3 ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nước ngoài dưới 20% gồm SHB, STB, VCB; còn lại là các ngân hàng có vốn chủ sở hữu nước ngoài chiếm tỷ trọng từ 20% đến 30%. 3. KHÁI NIỆM HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN Hiệu quả hoạt động của ngân hàng được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau và được đề cập đến trong nhiều tài liệu bao gồm hiệu quả tài chính, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kinh tế. Trong đó hiệu quả kỹ thuật là việc đạt được các đầu ra cực đại từ các đầu vào giới hạn hoặc cực tiểu hóa việc sử dụng đầu vào để đạt một mức đầu ra nhất định (Berger và De Young, 1997) Rất nhiều nghiên cứu đánh giá hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng khi có sự tham gia của vốn đầu tư nước ngoài so với các ngân hàng nội địa đã được tiến hành. Kết quả các nghiên cứu trước đây về vấn đề này không nhất quán với nhau, một số nghiên cứu cho thấy tác động tích cực của vốn sở hữu nước ngoài đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, trong khi một số nghiên cứu khác cho kết quả ngược lại. Bhattacharyya, Lovell, and Sahay (1997) đã tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động của 70 ngân hàng của Ấn Độ trong giai đoạn 1986 – 1991. Kết quả ước lượng bằng phương pháp bao dữ liệu (DEA) cho thấy các ngân hàng nước ngoài có hiệu quả hơn so với các ngân hàng tư nhân, song các ngân hàng thương mại nhà nước lại có hiệu quả hơn cả hai nhóm ngân hàng kia. 115 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Trong khi đó, Semih Yildirim and Philippatos (2007) tiến hành nghiên cứu thực nghiệm hệ thống ngân hàng của 12 quốc gia chuyển đổi ở Trung và Đông Âu, giai đoạn 1993 – 2000. Kết quả ước lượng bằng phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (stochastic frontier approach - SFA) và phương pháp tiếp cận phi phân phối (distribution-free approachDFA) cho thấy các ngân hàng nước ngoài có hiệu quả về mặt chi phí hơn song lại kém hiệu quả hơn về mặt lợi nhuận so với các ngân hàng nội địa. Bonin, Hasan, and Wachtel ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí Kinh tế Kỹ thuật Ngân hàng thương mại cổ phần Hiệu quả hoạt động Hiệu quả chi phí Ngân hàng sở hữu nước ngoàiGợi ý tài liệu liên quan:
-
Báo cáo thực tập nhận thức: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Chi nhánh Bắc An Giang
31 trang 165 0 0 -
89 trang 160 0 0
-
Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam
11 trang 95 0 0 -
22 trang 51 1 0
-
Tiểu luận: Phân tích báo cáo tài chính ngân hàng ACB giai đoạn 2008 – 2012
29 trang 47 0 0 -
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật: Số 7/2014
141 trang 37 0 0 -
5 trang 37 0 0
-
Tiểu luận: Phân tích báo cáo tài chính NH TMCP Techcombank giai đoạn 2008 - 2012
34 trang 37 0 0 -
Tìm hiểu về tín dụng xanh - Từ lý thuyết đến thực tiễn ở Việt Nam (Sách tham khảo): Phần 2
68 trang 35 0 0 -
92 trang 35 0 0