Danh mục

Hình tượng anh Khóa trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải _2

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 193.88 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong dòng chảy của thời gian, số tác giả còn đứng được với lịch sử không nhiều, số tác giả được mọi người nhớ đến cùng hình tượng văn học do mình sáng tạo ra lại càng ít.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hình tượng anh Khóa trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải _2Hình tượng anh Khóa trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải Trong dòng chảy của thời gian, số tác giả còn đứng được với lịch sử không nhiều,số tác giả được mọi người nhớ đến cùng hình tượng văn học do mình sáng tạo ra lạicàng ít. Nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải (1894-1983) là một trong số ít nhữngngườiđứng lại và lưu dấu ấn trong lịch sử văn học với hình tượng anh Khoá trong Tiễnchân anh Khoá xuống tàu (1914), Mong anh Khoá (1915), Gửi thư cho anh Khoá (1922)và Mừng anh Khoá về (1975). Có lẽ còn xa lắm, trong thời điểm của ông và trong tư duycủa ông cũng như tư duy của “những bạn đương thời” để nói đến sự kết hợp của hai kháiniệm “nhân vật điển hình” và “hoàn cảnh điển hình” nhưng rõ ràng sức sống của hìnhtượng anh Khoá đã nói lên tính đại diện của hình tượng này cho cả một thế hệ, một dântộc, một thời đại lịch sử của dân tộc Việt Nam. Theo Phạm Thế Ngũ, từ năm 1906, “ở xã thôn các thầy đồ dạy chữ Hán, dạy cảQuốc ngữ nữa để luyện học trò đi thi Tuyển sinh. Ở các trường phủ huyện của các quanGiáo, Huấn, học trò (đã đỗ Tuyển sinh) học chữ Hán và Quốc ngữ để đi thi Khóa sinh. Ởcác trường tỉnh, các quan Đốc học dạy học trò (đã đỗ Khóa sinh) học chữ Hán, chữQuốc ngữ và chữ Pháp nữa để đi thi Hạch. Trúng Hạch rồi mới được đi thiHương”(1) nên, như Xuân Diệu nói, anh Khóa “là một loại trí thức nho nhỏ dở dang”(2).Từ những anh học trò “dài lưng tốn vải”, sống cuộc sống bình dị “bên anh đọc sách bênnàng quay tơ” với giấc mơ “võng anh đi trước võng nàng theo sau” hay lang thang trongnhững mối tình sau “cuộc kì ngộ ở Trại Tây”… của những ngày xưa cũ đến anh Khoátrong thơ Á Nam đầu thế kỉ XX là một bước chuyển có nối tiếp và đứt gãy - đứt gãy củathời đại và trong đó có sự đứt gãy của số phận một tầng lớp trên cơ sở những đứt gãytrong số phận của một tập hợp cá nhân. Trong buổi giao thời mưa Âu gió Mĩ, chủ lưu văn học là văn học cũ có cách tân.Trong hai bước chuyển lớn của văn học giai đoạn này, Á Nam đi con đường thứ nhất:Rút kinh nghiệm từ văn học truyền thống và cách tân nghệ thuật. Kinh nghiệm mà vănhọc truyền thống mang lại bao gồm quan niệm thẩm mĩ, hình tượng văn học, ngôn ngữvăn học… trong đó hình tượng là một công cụ quan trọng. Hình tượng anh Khoá mangtrong nó cái trái chiều của lịch sử, sự giao thoa (hay đấu tranh?) giữa cái mới và cái cũtrong cùng một thực thể. Khoảng thời gian chưa đủ dài để thay đổi cách nghĩ khi conngười cổ truyền trong anh Khoá đối diện với các thành tựu công nghiệp mà hình ảnh contàu (Cái máy phân li xình xịch sắp chia duyên) có sức mạnh vô hình là một ví dụ. AnhKhoá (vào những năm 1914-1922) dù muốn dù không đã mang trong hành trang tri thứccủa mình một vốn kha khá Quốc ngữ và toán pháp... Con người của buổi giao thời đómang nỗi niềm hoàng hoa của người có chữ nên trở thành xưa cũ trong “ngọn gió nămchâu rào rạt sóng duy tân” và không gian của anh Khoá vẫn là không gian cũ - trước khibước lên tàu – không gian đó có một sức níu giữ mạnh đến lạ lùng khiến họ dở dangtrong bản chất “phi tân phi cựu, bất Đông bất Tây” của chính mình. Ở hình tượngnày đọng lại và cô đặc bóng hình của một thế hệ những nhà nho duy tân: Nửa dùng dằngnửa kiên quyết, khó phân định rạch ròi. Có thể đồng ý với Nguyễn Đình Chú rằng thế hệnhà nho đó không còn phải lựa chọn trong “mâu thuẫn giữa một bên là tinh thần dũngcảm giành độc lập và một bên là chủ nghĩa tôn quân lỗi thời”(3) và còn rất nhiều cái cũtrong tâm hồn che khuất tầm mắt họ trước những chân trời mới lạ. Khi viết chùm thơ ba bài về anh Khoá (trong giai đoạn 1914-1922, mà trung tâmlà Tiễn chân anh Khoá xuống tàu), Trần Tuấn Khải đã đặt hình tượng này vào khoảngthời gian khá trùng khít với những ba động của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.Theo Đặng Thai Mai, giai đoạn 1910-1916 là thời kì mà “chưa bao giờ thơ nước Namướt át, nhiều nước mắt như lúc này”(4) và ba bài thơ anh Khoá “phổ thông đến nỗi ngườita đã lấy cả vào đĩa hát ở miệng những danh ca bậc nhất”(5) khi “thơ thu, thơ sầu nonnước được mùa, (…) điệu sa mạc, bồng mạc vang dậy trên các vệ đường Hà Nội”(6). Babài thơ vẫn nằm trong mạch thơ “non nước” của văn chương yêu nước hợp pháp thời ấynhưng không dùng cặp hình ảnh “non - nước” làm thi liệu chính. Đây không phải cảmhứng hoài cổ như khi Nguyễn Bính mượn hình ảnh anh Khoá để nói về giấc mơ đỗ đạttrong bài thơ Quan Trạng mà mang hơi thở của thời đại không ít nhà nho phải nếm trảicảnh “Thầy Khóa tư lương nhấp nhổm ngồi”, của giai đoạn “chiêu hồn nước” lần thứ haitrong đó hình ảnh người cách mạng - nhà nho duy tân - là một sự ngưỡng vọng tronglòng dân. Trong quan hệ danh xưng, có hai nhân vật trữ tình là người em và anh Khoá.Người em nhìn anh Khoá bằng những khái niệm “giang hồ”, “phỉ chí tang bồng”,“thiên địa xoay vần”, “nước non xa muôn dặm vẫy vùng”, “trời Âu bể Á”, “ngang trờidọcđất”… nhưng người đọc không còn thấy tráng chí hùng tâm toát lên ở hình tượngnày. Nếu như các nhà ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: