![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Hipparque - Người đặt nền móng cho thiên văn học tính toán
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 226.76 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nhà thiên văn của Hi Lạp cổ đại Hi-pa-cơ (Hipparque) (khoảng 180 hoặc 190 – 125 TCN) được xem là người đầu tiên đã đặt nền móng tính toán cơ bản cho khoa học thiên văn chính xác.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hipparque - Người đặt nền móng cho thiên văn học tính toán Hipparque - Người đặt nền móng cho thiên văn học tính toán Nhà thiên văn của Hi Lạp cổ đại Hi-pa-cơ (Hipparque) (khoảng 180hoặc 190 – 125 TCN) được xem là người đầu tiên đã đặt nền móng tính toáncơ bản cho khoa học thiên văn chính xác. Tiểu sử của ông được người ta biếtđến rất ít. Chỉ biết rằng ông sinh ra ở thành phố Ni-kee6y (Nikei) (bây giờ làthành phố I-nic) (Iznik) thuộc Thổ Nhĩ Kỳ). Có một thời gian ông đã từng sống ở thành phố A-lec-xan-đri-a (Alexandria),nên phải chăng ông đã có được cơ may tiếp xúc với khoa học thực nghiệm nhiềuhơn. Cuộc đời và sự nghiệp nghiên cứu khoa học của ông chủ yếu diễn ra ở hònđảo Rô-đơ (Rhodes, thuộc Hi Lạp cổ đại), và ông đã cho xây dựng một đài thiên vănquan sát ở đây. Hi-pa-cơ là người đầu tiên tiến hành quan sát thiên văn một cách có hệthống. Lúc này kính viễn vọng chưa được phát minh, ông đã quan sát bầu trời quamột ống rỗng dài. Sau đấy ông đã dùng các phương pháp toán học để phân tíchtổng thể các số liệu được quan sát. Ông còn thiết lập được những khái niệm cơ bảncho thiên văn cầu và lượng giác cầu, hệ tọa độ địa lý…Đầu tiên ông tiến hành phân tích tỉ mỉ chi tiết chuyển động biểu kiến của Mặt Trờivà Mặt Trăng trên thiên cầu. Nhờ thế ông đã biết được rằng mặt phẳng chứa quỹđạo chuyển động của Mặt Trăng nghiêng so với mặt phẳng hoàng đạo (mặt phẳngchứa quỹ đạo chuyển động biểu kiến của Mặt trời trong một năm) một góc khoảng5 độ. Dựa trên kết quả đó, ông đã xây dựng được cơ sở lý thuyết của hiện tượngnhật thực và nguyệt thực rồi ông đã dự đáon được các thời điểm xảy ra cũng nhưquá trình diễn biến của hiện tượng nhật, nguyệt thực.Từ nhiều kết quả quan sát Mặt Trời, ông đã tính được bảng số liệu mà theo đó cóthể xác định được vị trí của Mặt Trời trong từng ngày. Quan trọng nhất là ông đãphát hiện ra được hiện tượng tuế sai – dịch chuyển của điểm xuân phân (là mộttrong hai giao điểm của đường hoàng đạo và đường xích đạo trời) hàng năm vềphía đối diện với chuyển động biểu kiến của Mặt Trời. Do đó độ dài của một nămxuân phân ngắn hơn năm giao hội (khoảng thời gian giữa hai lần liên tiếp Mặt Trờiquay về gặp ngôi sao được chọn làm mốc) khoảng 20 phút. Ông đã thiết lập bảng danh mục vị trí của hơn 1.000 ngôi sao. Ngoài ra ôngcòn phân loại tất cả các sao được nhìn thấy lúc bấy giờ ra thành 6 cấp. Những saosáng nhất thuộc cấp một, mờ nhất thuộc cấp sáu; như vậy, khái niệm cấp sao (xemtập một) đã được sử dụng từ thời Hi-pa-cơ. Và ở đây cần lưu ý thêm là, vào thời đóngười ta vẫn còn nghĩ rằng tất cả các ngôi sao đều ở cách Trái Đất một khoảng nhưnhau nên ngôi sao nào càng sáng rõ thì đường kính của nó càng lớn.Mặc dù vào thời điểm đó, cho đến năm 1515 khái niệm về các hàm số lượng giácvẫn chưa ra đời (đến mãi đầu thế kỷ thứ XVI mới xuất hiện), nhưng nhờ áp dụngnhững tính chất đồng dạn của các tam giác, Hi-pa-cơ đã tính được khoảng cách từMặt Trăng đến Trái Đất với độ chính xác khá cao so với thời bấy giờ. Giá trị ấy lớngấp 59 lần bán kính của Trái Đất, hay cụ thể xấp xỉ bằng 371 nghìn kilomet. Suy rakhoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời cỡ khoảng hơn 7 triệu kilomet. Tuy so với sốliệu thực tế bây giờ, kết quả mà Hi-pa-cơ tính được bé hơn đến 20 lần, nhưng nóđã được các nhà thiên văn sử dụng trong suốt hơn mười thế kỷ kể từ lúc đượccông bố. Anders Jonas Ångström Anders Jonas Ångström (1814–1874)là nhà vật lý người Thụy Điển,ông là một trong những người lập ra ngành quang phổ học và cũng được biếtđến là người nghiên cứu vật lý thiên văn, truyền nhiệt, từ trường Trái Đất vàbắc cực quang. Năm 1868, Ångström lập ra bảng quang phổ của bức xạ Mặt Trời trong đóbiểu thị bước sóng của các bức xạ điện từ trong bảng quang phổ điện từ theo phânmức một phần mười triệu milimet hay 1×10−10 met. Đợn vị độ dài này sau nàyđược đặt là đơn vị Ångström hay gọi tắt là ångström.Khoảng thấy được của con người là vào khoảng 4000 ångström (tím) đến 7000ångström (đỏ đậm) vì vậy tác dụng của đơn vị ångström là nó không mang lũythừa âm. Vì thang đo này gần với cấu trúc nguyên tử và phân tử nên nó cũng kháthông dụng trong hóa học và tinh thể học.Mặc dù ban đầu được lập ra cho phù hợp với 1×10−10 met, nhưng với yêu cầu độchính xác cao khi đo đạc quang phổ, angstrom cần được tính toán chính xác hơnđơn vị met, đơn vị này cho đến năm 1960 vẫn dựa trên độ dài của một thanh kimloại nằm ở Pari. Năm 1907, International Astronomical UNI0N (hội thiên văn quốctế) đã xác định bước sóng đỏ của nguyên tố cadmium (catmi) trong không khíbằng 6438,46963 đơn vị ångström quốc tế, và nó được công nhậnbởi International Bureau of Weights and Measures (cục đo lường quốc tế) năm1927. Từ năm 1927 đến 1960, đơn vị angstrom được coi là đơn vị đo độ dài thứhai trong quang phổ học, hoàn toàn độc lập với đơn vị met, nhưng năm 1960 đơnvị met được định nghĩa lại theo thuật ngữ quang phổ học, và angstr ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hipparque - Người đặt nền móng cho thiên văn học tính toán Hipparque - Người đặt nền móng cho thiên văn học tính toán Nhà thiên văn của Hi Lạp cổ đại Hi-pa-cơ (Hipparque) (khoảng 180hoặc 190 – 125 TCN) được xem là người đầu tiên đã đặt nền móng tính toáncơ bản cho khoa học thiên văn chính xác. Tiểu sử của ông được người ta biếtđến rất ít. Chỉ biết rằng ông sinh ra ở thành phố Ni-kee6y (Nikei) (bây giờ làthành phố I-nic) (Iznik) thuộc Thổ Nhĩ Kỳ). Có một thời gian ông đã từng sống ở thành phố A-lec-xan-đri-a (Alexandria),nên phải chăng ông đã có được cơ may tiếp xúc với khoa học thực nghiệm nhiềuhơn. Cuộc đời và sự nghiệp nghiên cứu khoa học của ông chủ yếu diễn ra ở hònđảo Rô-đơ (Rhodes, thuộc Hi Lạp cổ đại), và ông đã cho xây dựng một đài thiên vănquan sát ở đây. Hi-pa-cơ là người đầu tiên tiến hành quan sát thiên văn một cách có hệthống. Lúc này kính viễn vọng chưa được phát minh, ông đã quan sát bầu trời quamột ống rỗng dài. Sau đấy ông đã dùng các phương pháp toán học để phân tíchtổng thể các số liệu được quan sát. Ông còn thiết lập được những khái niệm cơ bảncho thiên văn cầu và lượng giác cầu, hệ tọa độ địa lý…Đầu tiên ông tiến hành phân tích tỉ mỉ chi tiết chuyển động biểu kiến của Mặt Trờivà Mặt Trăng trên thiên cầu. Nhờ thế ông đã biết được rằng mặt phẳng chứa quỹđạo chuyển động của Mặt Trăng nghiêng so với mặt phẳng hoàng đạo (mặt phẳngchứa quỹ đạo chuyển động biểu kiến của Mặt trời trong một năm) một góc khoảng5 độ. Dựa trên kết quả đó, ông đã xây dựng được cơ sở lý thuyết của hiện tượngnhật thực và nguyệt thực rồi ông đã dự đáon được các thời điểm xảy ra cũng nhưquá trình diễn biến của hiện tượng nhật, nguyệt thực.Từ nhiều kết quả quan sát Mặt Trời, ông đã tính được bảng số liệu mà theo đó cóthể xác định được vị trí của Mặt Trời trong từng ngày. Quan trọng nhất là ông đãphát hiện ra được hiện tượng tuế sai – dịch chuyển của điểm xuân phân (là mộttrong hai giao điểm của đường hoàng đạo và đường xích đạo trời) hàng năm vềphía đối diện với chuyển động biểu kiến của Mặt Trời. Do đó độ dài của một nămxuân phân ngắn hơn năm giao hội (khoảng thời gian giữa hai lần liên tiếp Mặt Trờiquay về gặp ngôi sao được chọn làm mốc) khoảng 20 phút. Ông đã thiết lập bảng danh mục vị trí của hơn 1.000 ngôi sao. Ngoài ra ôngcòn phân loại tất cả các sao được nhìn thấy lúc bấy giờ ra thành 6 cấp. Những saosáng nhất thuộc cấp một, mờ nhất thuộc cấp sáu; như vậy, khái niệm cấp sao (xemtập một) đã được sử dụng từ thời Hi-pa-cơ. Và ở đây cần lưu ý thêm là, vào thời đóngười ta vẫn còn nghĩ rằng tất cả các ngôi sao đều ở cách Trái Đất một khoảng nhưnhau nên ngôi sao nào càng sáng rõ thì đường kính của nó càng lớn.Mặc dù vào thời điểm đó, cho đến năm 1515 khái niệm về các hàm số lượng giácvẫn chưa ra đời (đến mãi đầu thế kỷ thứ XVI mới xuất hiện), nhưng nhờ áp dụngnhững tính chất đồng dạn của các tam giác, Hi-pa-cơ đã tính được khoảng cách từMặt Trăng đến Trái Đất với độ chính xác khá cao so với thời bấy giờ. Giá trị ấy lớngấp 59 lần bán kính của Trái Đất, hay cụ thể xấp xỉ bằng 371 nghìn kilomet. Suy rakhoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời cỡ khoảng hơn 7 triệu kilomet. Tuy so với sốliệu thực tế bây giờ, kết quả mà Hi-pa-cơ tính được bé hơn đến 20 lần, nhưng nóđã được các nhà thiên văn sử dụng trong suốt hơn mười thế kỷ kể từ lúc đượccông bố. Anders Jonas Ångström Anders Jonas Ångström (1814–1874)là nhà vật lý người Thụy Điển,ông là một trong những người lập ra ngành quang phổ học và cũng được biếtđến là người nghiên cứu vật lý thiên văn, truyền nhiệt, từ trường Trái Đất vàbắc cực quang. Năm 1868, Ångström lập ra bảng quang phổ của bức xạ Mặt Trời trong đóbiểu thị bước sóng của các bức xạ điện từ trong bảng quang phổ điện từ theo phânmức một phần mười triệu milimet hay 1×10−10 met. Đợn vị độ dài này sau nàyđược đặt là đơn vị Ångström hay gọi tắt là ångström.Khoảng thấy được của con người là vào khoảng 4000 ångström (tím) đến 7000ångström (đỏ đậm) vì vậy tác dụng của đơn vị ångström là nó không mang lũythừa âm. Vì thang đo này gần với cấu trúc nguyên tử và phân tử nên nó cũng kháthông dụng trong hóa học và tinh thể học.Mặc dù ban đầu được lập ra cho phù hợp với 1×10−10 met, nhưng với yêu cầu độchính xác cao khi đo đạc quang phổ, angstrom cần được tính toán chính xác hơnđơn vị met, đơn vị này cho đến năm 1960 vẫn dựa trên độ dài của một thanh kimloại nằm ở Pari. Năm 1907, International Astronomical UNI0N (hội thiên văn quốctế) đã xác định bước sóng đỏ của nguyên tố cadmium (catmi) trong không khíbằng 6438,46963 đơn vị ångström quốc tế, và nó được công nhậnbởi International Bureau of Weights and Measures (cục đo lường quốc tế) năm1927. Từ năm 1927 đến 1960, đơn vị angstrom được coi là đơn vị đo độ dài thứhai trong quang phổ học, hoàn toàn độc lập với đơn vị met, nhưng năm 1960 đơnvị met được định nghĩa lại theo thuật ngữ quang phổ học, và angstr ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu tham khảo tài liệu vật lí tài liệu về danh nhân vật lí nhân vật lịch sử tiểu sử danh nhânTài liệu liên quan:
-
Bài giảng Quan hệ Công chúng ( Đinh Tiên Minh) - Giới thiệu môn học
19 trang 228 0 0 -
Những sứ thần nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam: Phần 1
97 trang 40 0 0 -
HƯỚNG DẪN CÁCH TRÌNH BÀY VÀ VIẾT BÀI TẬP LỚN - Dành cho sinh viên Khoa Công nghệ thông tin
13 trang 36 0 0 -
48 trang 35 0 0
-
Nghệ thuật Thuật xử thế của người xưa
171 trang 34 0 0 -
Tài hùng biện của các nguyên thủ quốc gia: Phần 2 - Dương Minh Hào, Triệu Anh Ba
197 trang 34 0 0 -
Tìm kiếm thông tin y tế trực tuyến
157 trang 32 0 0 -
Danh nhân lịch sử: Nguyễn Hoàng Tôn
6 trang 32 0 0 -
5 Câu hỏi ôn tập môn chính trị học
15 trang 31 0 0 -
7 trang 30 0 0