HOFFMANN - LA ROCHE Viên nén 0,375 mg : hộp 100 viên - Bảng A.Viên nén 0,750 mg : hộp 100 viên - Bảng A.THÀNH PHẦNcho 1 viênZalcitabine0,375 mgcho 1 viênZalcitabine0,750 mgDƯỢC LỰCKháng rétrovirus. Cơ chế tác động :Zalcitabine là một hợp chất tổng hợp, có cấu trúc tương tự 2désoxycytidine, là một nucléoside tự nhiên, trong đó nhóm hydroxyle ở vị trí 3 được thay thế bằng nguyên tử hydrogène. Ở trong tế bào, zalcitabine được chuyển đổi thành một chất chuyển hóa có hoạt tính, là didésoxycytidine 5 triphosphate (ddCTP) bằng các enzyme của tế bào. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HIVID (Kỳ 1) HIVID (Kỳ 1)HOFFMANN - LA ROCHEViên nén 0,375 mg : hộp 100 viên - Bảng A.Viên nén 0,750 mg : hộp 100 viên - Bảng A.THÀNH PHẦN cho 1 viên Zalcitabine 0,375 mg cho 1 viên Zalcitabine 0,750 mg DƯỢC LỰC Kháng rétrovirus. Cơ chế tác động : Zalcitabine là một hợp chất tổng hợp, có cấu trúc tương tự 2-désoxycytidine, là một nucléoside tự nhiên, trong đó nhóm hydroxyle ở vị trí 3được thay thế bằng nguyên tử hydrogène. Ở trong tế bào, zalcitabine được chuyểnđổi thành một chất chuyển hóa có hoạt tính, là didésoxycytidine 5 triphosphate(ddCTP) bằng các enzyme của tế bào. Chất didésoxycytidine 5 triphosphate bắt chước chất nền tự nhiên của mentranscriptase đảo ngược của VIH là désoxycytidine triphosphate (dCTP), và hãmlại quá trình sao chép của VIH in vitro do ức chế cạnh tranh trên sự tổng hợp ADNcủa virus nhờ tác động làm đứt chuỗi ngay từ đầu. Các nghiên cứu so sánh tác động kháng virus của zalcitabine trên các virusVIH-1 và VIH-2 in vitro không cho thấy có sự khác biệt nào đáng kể trên tínhnhạy cảm giữa hai loại virus khi tác động được đánh giá dựa trên hiệu lực gây độctính trên tế bào virus. Mối liên quan giữa một bên là tác động ức chế VIH bởizalcitabine in vitro, và một bên là sự ức chế quá trình sao chép của VIH trên bệnhnhân đã bị nhiễm hoặc trên đáp ứng lâm sàng với điều trị, hiện chưa được thiếtlập. DƯỢC ĐỘNG HỌC Dược động học của zalcitabine đã được đánh giá qua các nghiên cứu trênbệnh nhân người lớn đã bị nhiễm VIH sau khi dùng các liều uống 0,01 mg/kg,0,03 mg/kg và 1,5 mg và dùng đường tiêm tĩnh mạch liều 1,5 mg (trong 1 giờ). Hấp thu và sinh khả dụng : Bệnh nhân đã bị nhiễm VIH, sau khi uống thuốc, có sinh khả dụng trungbình tuyệt đối trên 80%. Sự hấp thu zalcitabine liều 1,5 mg bằng đường uống (n = 20) bị giảm khidùng chung với thức ăn, kết quả là nồng độ tối đa trung bình trong máu (Cmax) sẽgiảm 39%, từ 25,2 ng/ml xuống còn 15,5 ng/ml, và tăng gấp đôi thời hạn trungbình cần thiết để đạt được nồng độ tối đa (Tmax), từ 0,8 giờ (lúc đói) lên 1,6 giờ(khi có thức ăn). Diện tích dưới đường cong phản ánh mức trung bình hấp thucũng giảm 14%. Ảnh hưởng trên lâm sàng của sự giảm này chưa được biết đến. Phân phối : Sau khi tiêm tĩnh mạch một liều 1,5 mg zalcitabine, thể tích phân phối ởtình trạng cân bằng trung bình là 0,634 l/kg (+/- 0,127). Gắn kết với protéine huyếttương dưới 4%, điều này có nghĩa là không chắc có xảy ra tương tác với các thuốccó gắn kết cao với protéine huyết tương. Các nồng độ đo lường được của zalcitabine được phát hiện trong dịch nãotủy từ 2 đến 3,5 giờ sau khi truyền tĩnh mạch 0,06 mg/kg hoặc 0,09 mg/kg. Tươngquan giữa các nồng độ (dịch não tủy - huyết tương) được ghi nhận trong khoảng 9-37% (trung bình 20%), điều này cho thấy rằng hoạt chất thuốc đi qua được hàngrào máu não. Chuyển hóa và đào thải : Zalcitabine được phosphoryl hóa ở trong tế bào thành zalcitabinetriphosphate, là chất nền của men transcriptase đảo ngược của VIH. Nồng độ củazalcitabine triphosphate rất thấp không thể định lượng được sau khi dùng với liềuđiều trị ở người. Sự chuyển hóa của zalcitabine ở người không được đánh giá hoàn toàn.Zalcitabine không bị chuyển hóa đáng kể ở gan. Bài tiết qua thận là đường đàothải chánh, chiếm khoảng 70% liều uống được đánh dấu bằng đồng vị phóng xạtrong 24 giờ đầu. Thời gian bán hủy đào thải trung bình là 2 giờ và dao động từ 1đến 3 giờ ở từng bệnh nhân. Thời gian bán hủy trong tế bào của chất chuyển hóa có hoạt tính (ddCTP)trong khoảng từ 7 đến 10 giờ. Sau khi tiêm tĩnh mạch, thanh thải hoàn toàn trong cơ thể trung bình là 285ml/phút. Lượng zalcitabine đã được đánh dấu được đào thải qua phân dưới 10%. Các kết quả ghi nhận được ở người suy thận (thanh thải créatinine dưới 55ml/phút) cho thấy rằng thời gian bán hủy của zalcitabine dài hơn (cho đến 8,5 giờ)so với người có chức năng thận bình thường. Sau khi dùng liều duy nhất, đỉnh hấpthu trong huyết tương cao hơn ở một vài bệnh nhân. Ở bệnh nhân có chức năng thận bình thường, dược động học của zalcitabinekhông bị biến đổi sau khi dùng các liều lặp lại 3 lần/ngày. Sự tích tụ của hoạt chấttrong huyết tương không đáng kể. ...