Danh mục

HIVID (Kỳ 2)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 151.67 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

AN TOÀN TIỀN LÂM SÀNG Khả năng gây ung thư :Các u bạch huyết bào ở tuyến ức đã được quan sát ở chuột sau khi dùng dài hạn ddC với liều 1000 mg/kg/ngày. Tuy nhiên, cho đến nay không phát hiện có gây u bạch huyết bào trong các nghiên cứu lâm sàng.Khả năng gây đột biến : Các test Ames được thực hiện trên các chủng khác nhau có hoặc không gây hoạt hóa sự chuyển hóa, không ghi nhận thấy một khả năng gây đột biến nào. Các test trên tế bào phổi của chuột lang...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HIVID (Kỳ 2) HIVID (Kỳ 2) AN TOÀN TIỀN LÂM SÀNG Khả năng gây ung thư : Các u bạch huyết bào ở tuyến ức đã được quan sát ở chuột sau khi dùng dàihạn ddC với liều 1000 mg/kg/ngày. Tuy nhiên, cho đến nay không phát hiện cógây u bạch huyết bào trong các nghiên cứu lâm sàng. Khả năng gây đột biến : Các test Ames được thực hiện trên các chủng khác nhau có hoặc không gâyhoạt hóa sự chuyển hóa, không ghi nhận thấy một khả năng gây đột biến nào. Cáctest trên tế bào phổi của chuột lang Trung quốc (với có hoặc không gây sự chuyểnhóa hoạt hóa) và trên các tế bào của u bạch huyết bào của chuột cũng không ghinhận một khả năng gây đột biến nào. Một test về sự tổng hợp ADN không cótrong chương trình, được thực hiện trên các tế bào gan của chuột cống, không ghinhận có tăng khả năng hồi phục các sang thương của ADN. Các bạch huyết bào ở máu ngoại biên ở người được điều trị bằngzalcitabine, có hoặc không có sự chuyển hóa hoạt hóa ; ở nồng độ >= 1,5 mg/ml,mức độ gây sai lạc nhiễm sắc thể tăng phụ thuộc vào liều đã được phát hiện. Ởliều uống từ 2500 đến 4500 mg/kg zalcitabine gây rạn nứt (clastogène) trong cáctest trên vi nhân (micronucleus) ở chuột. Khả năng sinh sản : Khả năng thụ tinh và sinh sản đã được đánh giá ở chuột cống ở những nồngđộ trong huyết tương cao, theo giá trị của diện tích dưới đường cong, cho đến gấp2142 lần nồng độ đạt được ở người khi dùng liều điều trị tối đa khuyến cáo. Không một tác dụng ngoại ý nào được ghi nhận ở những nồng độ này trênkhả năng thụ thai và sinh sản. Ở liều cao hơn, được ghi nhận có khả năng gây chếtphôi và gây quái thai. Ở liều thấp hơn (nồng độ trong huyết tương tương ứng với485 lần nồng độ đạt được ở người khi dùng liều điều trị tối đa khuyến cáo), tỉ lệgây độc tính trên phôi rất thấp và không có tác dụng gây quái thai. CHỈ ĐỊNH Hivid (zalcitabine) được chỉ định đơn liệu pháp ở người lớn bị nhiễm VIH,ở giai đoạn phát bệnh và có biểu hiện không dung nạp zidovudine hoặc thất bạikhi điều trị với zidovudine. Sự không dung nạp về máu có liên quan đến zidovudine được định nghĩanhư sau : - giảm hàm lượng hémoglobine ít nhất 2 g/100 ml hoặc nồng độ tổng cộngcủa hémoglobine thấp hơn 8,5 g/100 ml. - giảm bạch cầu trung tính ít nhất 200 tế bào/mm3 hoặc nồng độ tổng cộngdưới 750 tế bào/mm3. Sự không dung nạp trên lâm sàng bao gồm hoặc có tổn thương cơ với tăngcác enzyme ở cơ, giảm khi ngưng zidovudine, hoặc có các triệu chứng trên đườngtiêu hóa, hoặc xuất hiện tất cả các triệu chứng lâm sàng khác đã biết có liên quanđến zidovudine. CHỐNG CHỈ ĐỊNH Hivid bị chống chỉ định ở bệnh nhân đã biết bị quá mẫn với một trong cácthành phần của viên thuốc. CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG Tính dung nạp của Hivid chưa được thiết lập ở trẻ em dưới 13 tuổi và ởbệnh nhân bị nhiễm VIH nhưng không có triệu chứng. Bệnh thần kinh ngoại biên : Biểu hiện ngộ độc chính của Hivid trên lâm sàng là gây các bệnh thần kinhngoại biên. Bệnh thần kinh ngoại biên có liên quan đến Hivid là bệnh thần kinhcảm giác-vận động được đặc trưng ban đầu bởi sự đờ đẫn và loạn cảm giác kiểucảm giác rát bỏng ở các đầu ngón. Sau đó là các cảm giác đau nhói cấp tính hoặccó cảm giác rát bỏng kéo dài và trầm trọng nếu không ngưng dùng thuốc. Bệnhthần kinh có thể tiến triển theo hướng gây các cơn đau nặng cần phải dùng đến cácdẫn xuất opium để làm dịu, và có thể không hồi phục được, nhất là nếu khôngngưng sớm Hivid. Ở một vài bệnh nhân, các triệu chứng bệnh thần kinh có thể tiếptục và tiến triển thêm trong một thời gian mặc dầu đã ngưng dùng Hivid. NếuHivid được ngưng sớm, bệnh thần kinh thường thường sẽ được hồi phục từ từ. Nên khuyên bệnh nhân nếu đã có biểu hiện của bệnh thần kinh từ trungbình đến nặng với các triệu chứng kèm theo các dấu hiệu cụ thể, nên tránh mọi sựđiều trị bằng Hivid. Hivid phải được sử dụng thật thận trọng ở những bệnh nhân đã có một bệnhlý thần kinh ngoại biên trước đó. Hivid cũng phải được sử dụng thật thận trọng ởnhững bệnh nhân có hàm lượng CD4 thấp (CD4 < 50 tế bào/mm3) do có nguy cơcao phát triển các bệnh thần kinh ngoại biên khi điều trị bệnh Hivid. Nên đặc biệttheo dõi ở những bệnh nhân này. ...

Tài liệu được xem nhiều: