Với đặc trưng ngôn ngữ của thể loại đặc biệt, tranh cổ động là một phần quan trọng của đời sống chính trị- xã hội. Ở nước ta, tranh cổ động hình thành và phát triển từ những ngày tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhằm tuyên truyền phục vụ cuộc đấu tranh giành độc lập tự do và tranh cổ động đã có hơn 60 năm gắn bó với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Họa Sỹ Huỳnh Văn Thuận Với Những Bức Tranh Cổ Động
Họa Sỹ Huỳnh Văn Thuận Với Những
Bức Tranh Cổ Động
Với đặc trưng ngôn ngữ của thể loại đặc biệt, tranh cổ động
là một phần quan trọng của đời sống chính trị- xã hội. Ở
nước ta, tranh cổ động hình thành và phát triển từ nh ững ngày
tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhằm tuyên
truyền phục vụ cuộc đấu tranh giành độc lập tự do và tranh
cổ động đã có hơn 60 năm gắn bó với sự nghiệp cách mạng
của dân tộc.
Tranh cổ động thuộc loại hình nghệ thuật đồ họa mang tính
khái quát cao với những yêu cầu như: tính súc tích, tính thời
sự, điển hình hoá,... phục vụ nhu cầu phản ánh tuyên truyền
một cách kịp thời, dễ hiểu, biểu đạt rõ ràng, thuyết phục
nhằm đưa ra một thông điệp chính trị xã hội. Nhìn l ại th ời kỳ
sôi động của tranh cổ động qua hai cuộc kháng chiến, nhiều
tác phẩm mang giá trị nghệ thuật và thời sự nóng bỏng đã t ạo
dựng được sức sống mang dấu ấn lịch sử, vượt qua th ời gian
làm giàu cho kho tàng thể loại tranh cổ động Việt Nam. Một
trong những hoạ sĩ góp phần lớn vào loại hình tranh cổ động
và đi tiên phong trong hoạt động của mỹ thuật phục vụ kháng
chiến ở hai cuộc chiến của nhân dân ta, đó là hoạ sĩ Huỳnh
Văn Thuận. Những bức tranh cổ động nhạy bén về đề tài,
phong phú về bút pháp của ông đã cổ vũ tinh thần yêu nước,
niềm tin vào cuộc kháng chiến trường kỳ; kịp thời phản ánh
chủ trương, chiến lược, sách lược của Đảng. Đặc biệt những
bức tranh cổ động địch vận đã có sức mạnh th ực tiễn, làm
thức tỉnh hàng loạt binh sĩ Pháp và nguỵ binh rời bỏ hàng ngũ.
hoạ sĩ Huỳnh Văn Thuận sinh năm 1921, quê ở Gia Định- Sài
Gòn trong một gia đình không có truyền thống hội h ọa, học
hết phổ thông trung học, ông thi vào trường Mỹ ngh ệ thực
hành Gia Định, và đỗ đầu. Khi đang học năm thứ 3, ông lại thi
thẳng vào Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương rồi trở thành sinh
viên xuất sắc trong trường. Ông tốt nghiệp khóa 1939-1944
và tham gia cách mạng ở Hà Nội rồi ra Việt Bắc tham gia
kháng chiến và công tác tại tổ họa của Trung ương Đoàn.
Năm 1946 ông cùng hoạ sĩ Lê Phả tổ chức một triển lãm tại
Hà Nội lấy tên “Triển lãm nhóm đồ họa hai người” gồm các
tác phẩm khắc gỗ màu với nội dung tuyên truyền cổ động
cho phong trào cách mạng. Vào giữa năm 1951 tại Việt Bắc,
ngay sau Đại hội toàn quốc Đoàn Thanh niên cứu quốc, ông
cùng hoạ sĩ Tôn Đức Lượng được tổ chức giao cho phác th ảo
huy hiệu Đoàn Thanh niên cứu quốc. Và bản phác th ảo của
ông đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm biểu tượng của
Đoàn. Bác còn đề dưới bản vẽ là: “Thanh niên tay cầm cờ đ ỏ
sao vàng tiến lên”.
Năm 1953, ông cùng hoạ sĩ Lê Phả, Bùi Trang Ch ước được
giao nhiệm vụ vẽ đồng tiền riêng của Việt Nam. Năm 1974,
ông được bầu làm Cục trưởng Cục Mỹ thuật miền Nam khi
tham gia đoàn quân tiếp quản thành phố. Nhưng cuối năm
1976, ông lại sẵn sàng giao lại cả biệt thự và ôtô để ra Bắc
thuê nhà sống và công tác. Hòa bình lập lại, ông làm Cục
trưởng Mỹ thuật Bộ Văn hóa, sau chuyển sang Hội Mỹ thuật
và hiện đã nghỉ hưu. Ông nổi tiếng với nhiều tác phẩm mỹ
thuật, đặc biệt trong hai lĩnh vực sơn khắc và tranh cổ động.
Năm 1988 ông cùng hoạ sĩ Thục Phi tổ chức triển lãm tranh
cổ động tại thị xã Cẩm Phả, Quảng Ninh, sau đó đưa về Hà
Nội. Trong các triển lãm nhóm năm 2004-2005, ông đều có
tranh cổ động tham dự.
Tác phẩm của ông, dù là sơn khắc, sơn mài hay tranh cổ động
cũng thể hiện một cái nhìn tỉ mỉ đến từng chi tiết, thanh thoát
và phóng khoáng trong cấu trúc của hình và nét. Nét dày, nét
thưa được tập hợp trong các không gian dày đặc mà không
rối, tạo được lớp lang của chiều sâu và chắt lọc được hình
ảnh tiêu biểu của sự vật. Các mảng màu giản dị và tinh khiết,
giản lược mà không đơn điệu đã nói lên được sự mặn mà của
ông đối với thể loại tranh mang tính phục vụ cao như loại
hình tranh cổ động. Đây là một thể loại mà ông rất yêu thích
và dường như ông đã lấy tranh cổ động làm sự nghiệp sáng
tác, cam chịu những vất vả khó khăn để vẽ nên một khối
lượng lớn suốt từ năm 1946 đến nay, nhiều bức đã trở thành
tiêu biểu cho thể loại này. Từ những ưu điểm đó mà tranh c ổ
động của ông như gần gũi với người xem, vừa truyền tải
được tính thời sự, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của loại
tranh này và đặc biệt nó được nâng cao mang tính biểu trưng
mà ngày nay khi nhắc đến không ai là không biết nh ư: “Huy
hiệu Đoàn” năm 1951 là một ví dụ. Bên cạnh đó, ông còn
sáng tác nhiều tranh cổ động về Bác Hồ vì với ông, nhờ Bác
Hồ, nhờ cách mạng mà ông được vẽ những bức tranh đẹp
cho đất nước, cũng nhờ theo Bác Hồ, theo cách mạng, mà ông
được vinh dự vẽ huy hiệu Đoàn và mẫu vẽ ấy được Bác Hồ
phê chuẩn. Ông còn vinh dự được gắn bó với một công việc
rất khó là vẽ hình Bác Hồ trên những đồng tiền đầu tiên c ủa
nước nhà. Ông tâm niệm “mình chuyên vẽ Bác Hồ, lại
chuyên vẽ tranh cổ động về Bác thì càng phải gương m ẫu
trau dồi đạo đức cách mạng, đạo đức Bác Hồ. Có rèn luyện,
học tập đạo đức Bác Hồ thì nét vẽ về Bác mới trong sáng,
chân thật”. Cũng như chuyện học tập tấm gương đạo đức
Bác Hồ bây giờ, những người làm công tác tuyên truy ền, vận
động trước hết phải là những tấm gương về đạo đức thì
quần chúng mới tin theo, làm theo.
Chính vì thế mà trong khối lượng tranh cổ động của ông, hình
tượng Bác Hồ- vị lãnh tụ kiệt xuất của Đảng, của dân tộc-
luôn chiếm vị trí quan trọng trong bố cục cũng như chiếm vị
trí trang trọng nhất trong sự nghiệp sáng tác tranh cổ động
của hoạ sĩ Huỳnh Văn Thuận. Tranh cổ động của ông đã phát
triển mạnh mẽ và có nhiều tác phẩm xuất sắc có giá trị lịch
sử và nghệ thuật cao.
...