Danh mục

Hoàn thiện các quy định về xây dựng pháp luật

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 229.11 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật (XDPL) đã góp phần đặc biệt quan trọng vào việc tạo ra một môi trường pháp lý thông thoáng, bình đẳng để ổn định xã hội, phát triển kinh tế. Công tác XDPL được đẩy mạnh nhờ sự ra đời của hệ thống các quy định về công tác xây dựng văn bản nói chung, văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), trong đó Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL) giữ vai trò trọng tâm. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hoàn thiện các quy định về xây dựng pháp luật Hoàn thiện các quy định về xây dựng pháp luật Trong thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật (XDPL) đã góp phần đặc biệt quan trọng vào việc tạo ra một môi trường pháp lý thông thoáng, bình đẳng để ổn định xã hội, phát triển kinh tế. Công tác XDPL được đẩy mạnh nhờ sự ra đời của hệ thống các quy định về công tác xây dựng văn bản nói chung, văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), trong đó Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL) giữ vai trò trọng tâm. Những quy định đó, một mặt đã tạo ra cơ chế bắt buộc, hạn chế đáng kể sự tùy tiện, chủ quan duy ý chí của những chủ thể liên quan tới hoạt động XDPL; mặt khác cũng góp phần mở rộng dân chủ trong hoạt động XDPL ở nước ta. Tuy nhiên, vẫn còn những quy định về XDPL bộc lộ một số điểm bất hợp lý, cần được nhanh chóng khắc phục. 1. Phạm vi của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Luật BHVBQPPL năm 1996 và Luật BHVBQPPL năm 2008 đều giới hạn phạm vi điều chỉnhL: một là, chỉ quy định về việc ban hành VBQPPL; hai là, chỉ quy định cụ thể về hoạt động XDPL của các cơ quan nhà nước ở trung ương. Điều này đã tạo ra một số bất hợp lý sau: - Thứ nhất, các quy định trong Luật không phản ánh đầy đủ bản chất của hoạt động XDPL. Hiện nay, trong khoa học pháp lý nước ta, có quan niệm phổ biến coi hoạt động XDPL được tiến hành bằng nhiều cách thức khác nhau: (i) xác định những tập quán, tiền lệ nhất định được thừa nhận là pháp luật; (ii) ra văn bản phê chuẩn các quy phạm được hình thành bởi các chủ thể không có quyền ban hành VBQPPL; (3) ban hành các VBQPPL để đặt ra các quy định cần thiết và (iv) ký kết các điều ước quốc tế với các quốc gia khác (hoặc các chủ thể khác của luật quốc tế). Ngay trong pháp luật thực định, cũng có nhiều quy định thể hiện quan điểm thừa nhận tập quán pháp. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Giao dịch dân sự có hiệu lực khi (...)mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luậtm, không trái đạo đức xã hội” (1); “Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu (...). Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng” (2); “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán, nhưng không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này” (3); “Chỉ những tài sản có thể đem giao dịch được và những công việc có thể thực hiện được mà pháp luật không cấm, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của nghĩa vụ dân sự” (4). Trong Luật Thương mại năm 2005, có quy định về “nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại” (5) và “nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại” (6). Về việc phê chuẩn các hương ước, quy ước làng xã, có Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg, ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư; Thông tư liên tịch số 03 ngày 31/3/2000 của Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá Thông tin và Ban thường trực Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư. Về ký kết các điều ước quốc tế, có Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005. Về ban hành VBQPPL có Luật BHVBQPPL năm 2008 và Luật BHVBQPPL của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004. Như vậy, có thể thấy rõ, việc cấp có thẩm quyền thừa nhận tập quán pháp hoặc phê chuẩn văn bản có tính quy phạm để nâng chúng lên thành pháp luật mới chỉ có một số quy định sơ khai trong những VBQPPL có hiệu lực pháp lý thấp. Do đó, cần nghiên cứu để đưa vào Luật BHVBQPPL các quy định về việc phê chuẩn đối với các văn bản có tính quy phạm của những chủ thể không có quyền ban hành VBQPPL (như phê chuẩn nội quy, quy chế của các Sở, các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước); việc thừa nhận những tập quán trong xã hội nhằm biến chúng thành pháp luật. Thứ hai, sự chồng chéo, thiếu tập trung của các quy định về hoạt động XDPL của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền Vấn đề này bắt nguồn từ việc tồn tại song song hai đạo luật về ban hành VBQPPL (7) khác nhau nên đã tạo ra sự phân tán, không tập trung, trùng lặp, chồng chéo của các quy định về XDPL. Thêm vào đó, sự bất hợp lý thể hiện ngay trong mối tương quan về phạm vi điều chỉnh giữa hai đạo luật này. Theo chúng tôi, muốn hợp lý thì Luật BHVBQPPL năm 2008 phải đổi tên là Luật BHVBQPPL của các cơ quan trung ương. Từ những phân tích trên, có thể thấy rõ tính cấp thiết của việc ban hành một đạo luật mới trên cơ sở hợp nhất hai đạo luật này để quy định đầy đủ, thống nhất về các vấn đề có liên quan tới việc ban hành các VBQPPL ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương; đồng thời mở rộng phạm vi điều chỉnh của văn bản để bao hàm cả vấn đề thừa nhận tập quán pháp hoặc phê chuẩn văn bản có tính quy phạm. Và với những nội dung đó, tên gọi “Luật BHVBQPPL” sẽ không còn phù hợp, mà nên là “Luật XDPL”. 2. Một số nội dung cụ thể về ban hành VBQPPL 2.1. Quy định về một số thể loại VBQPPL Nếu so sánh với quy định của Luật BHVBQPPL năm 1996 thì những quy định của Luật BHVBQPPL năm 2008 về thể loại VBQPPL đã có sự tiến bộ vượt bậc. Tuy nhiên, theo chúng tôi, vẫn còn một số điểm bất hợp lý, cần được tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung. Thứ nhất, quy định về chỉ thị của ủy ban nhân dân các cấp Việc loại bỏ thể loại chỉ thị ra khỏi hệ thống VBQPPL của các cơ quan nhà nước ở cấp trung ương đã thể hiện sự đánh giá đúng đắn, khoa học về bản chất của các chỉ thị. Trên thực tiễn, chỉ thị thường được sử dụng để cơ quan ban hành đề ra các mệnh lệnh, yêu cầu, buộc cấp dưới thực hiện. Với những nội dung này, chỉ thị là hình thức văn bản cá biệt, được sử dụng trong quá trình điều hành (văn bản điều hành) của cấp có thẩm quyền. Trong một số trường hợp khác, chỉ thị mới được ban hành để đặt ra các chủ trương, chính sách (văn bản chủ đạo)(8) và có thể phối hợp với việc đề ra các mệnh lện ...

Tài liệu được xem nhiều: