Danh mục

Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trong kỷ nguyên số

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 333.77 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cuộc cách mạng 4.0 là xu thế phát triển tất yếu, đã và đang đặt ra yêu cầu đổi mới đối với hầu hết các lĩnh vực trong xã hội, Với sự phát triển nhanh chóng này, kinh tế chia sẻ, dịch vụ hàng đầu, một số thành viên trong xã hội nắm bắt cơ hội và thành công, ngược lại những người lao động không kịp thích ứng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Bài viết trình bày thực trạng pháp luật về Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay; Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm xã hội trong bối cảnh chuyển đổi số.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trong kỷ nguyên số HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TRONG KỶ NGUYÊN SỐ Đỗ Thị Quỳnh Trang Mai Đăng Lưu 1. Đặt vấn đề Cuộc cách mạng 4.0 là xu thế phát triển tất yếu, đã và đang đặt ra yêu cầu đổi mới đối với hầu hết các lĩnh vực trong xã hội, Với sự phát triển nhanh chóng này, kinh tế chia sẻ, dịch vụ hàng đầu, một số thành viên trong xã hội nắm bắt cơ hội và thành công, ngược lại những người lao động không kịp thích ứng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy các chính sách bảo vệ các thành viên trong xã hội quan trọng hơn bao giờ hết. Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống pháp luật về an sinh xã hội (ASXH) đã từng bước được hoàn thiện, bảo đảm quyền ASXH cho người dân. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định tại Điều 34: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”; và cũng quy định tại Điều 57: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội”. Pháp luật về ASXH là công cụ thực hiện chính sách phúc lợi xã hội trong kinh tế. Thông qua pháp luật về ASXH, Nhà nước điều tiết các mối quan hệ xã hội nhằm định hướng và thúc đẩy sự phát triển xã hội theo nguyên tắc phát triển bền vững và phục vụ các mục tiêu xã hội. Bảo hiểm xã hội (BHXH) được coi là trụ cột của “an sinh xã hội”. Chỉ khi có hệ thống bảo hiểm xã hội hoạt động hiệu quả thì mới có nền an sinh vững mạnh. Bảo hiểm xã hội được hiểu là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.278 Trong những năm qua, các chính sách về BHXH đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên, với sự phát triển vượt bậc của đời sống xã hội trong kỷ nguyên số, việc hoàn thiện pháp luật về BHXH là một trong những nội dung cơ  ThS., GV Khoa Luật Kinh tế Trường Đại học Luật, Đại học Huế; Email: trangdtq@hul.edu.vn  ThS., GV Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Luật, Đại học Huế; Email: luumd@hul.edu.vn 278 Điều 3 Luật bảo hiểm xã hội 2014 280 bản của chính sách ASXH nhằm nâng cao tính chủ động, khả năng tự an sinh của người dân khi xảy ra các tác động bất lợi về kinh tế. 2. Thực trạng pháp luật về Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay Thứ nhất, diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật còn thấp. Tính đến năm 2020, mới chỉ có gần 33,5% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, vẫn còn gần 32 triệu người trong lực lượng lao động trong độ tuổi lao động trong độ tuổi lao động (khoảng 66,5%) chưa tham gia BHXH.279 Tỷ lệ này chưa cao nguyên nhân một phần do quy định về đối tượng tham gia BHXH. Theo quy định tại Luật BHXH 2014, đối tượng bắt buộc tham gia BHXH là người lao động làm việc theo Hợp đồng lao động (HĐLĐ) từ 01 tháng trở lên. Luật BHXH mới chỉ quy định bắt buộc tham gia BHXH đối với người lao động làm việc có hợp đồng lao động280. Điều này đồng nghĩa: Một là, quy định này đã bỏ sót một số chủ thể có nhu cầu và điều kiện tham gia. Một trong những điểm tiến bộ vượt bậc của Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 2019 có hiệu lực vào ngày 01/01/2021 đó là đã mở rộng đối tượng áp dụng cho cả khu vực không có quan hệ lao động281. Điều này có nghĩa là BLLĐ sẽ điều chỉnh cả đối với người làm việc không trên sơ sở thuê mướn bằng hợp đồng lao động. Như vậy, việc Luật BHXH chỉ quy định như trên đã bỏ sót những chủ thể có nhu cầu và điều kiện tham gia BHXH ví dụ như những người lao động tự do, chủ hộ kinh doanh…. Hai là, quy định này không còn thống nhất với quy định của BLLĐ 2019. BLLĐ 2019 quy định về Hợp đồng lao động như sau: “Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên 279 http://baochinhphu.vn/Chinh-sach-moi/De-nghi-xay-dung-Luat-Bao-hiem-xa-hoi-sua-doi/428654.vgp 280 Điều 2 Luật BHXH 2014 281 Khoản 1 Điều 2 BLLĐ 2019 quy định về Đối tượng áp dụng : “Người lao động, người học nghề, người tập nghề và người làm việc không có quan hệ lao động” 281 thì được coi là hợp đồng lao động.”282 Như vậy, những loại hợp đồng có tên gọi khác nhưng được coi là hợp đồng lao động theo BLLĐ 2019, người lao động có bắt buộc phải tham gia BHXH hay không? Quy định này, có thể dẫn đến thực trạng Người sử dụng lao động và Người lao động không kí Hợp đồng lao động mà sẽ kí những loại thỏa thuận khắc nhằm tránh nghĩa vụ đóng BHXH bắt buộc. Thứ hai, Các chế độ BHXH cho người tham gia BHXH tự nguyện còn hạn chế. Theo quy định của Luật BHXH 2014, người lao động tham gia BHXH bắt buộc được hưởng các chế độ sau: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí và tử tuất. Trong khi người lao động tham gia BHXH tự nguyện mới chỉ được hưởng 02 chế độ là hưu trí và tử tuất. Như vậy, người lao động tham gia BHXH tự nguyện trong suốt quá trình đóng bảo hiểm không được bảo vệ các trường hợp bị giảm sút hoặc mất thu nhập khi còn tham gia quan hệ lao động. Điều này dẫn đến sự không “mặn mà” của người dân khi quyết định tham gia vào quỹ BHXH và giảm sức cạnh tranh của BHXH tự nguyện với rất nhiều loại hình bảo hiểm khác hiện nay trên thị trường, ví dụ như Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm chăm sóc sức khỏe. Thứ ba, Quy định về thời gian đóng bảo hiểm tối thiểu để được hưởng lương hưu khá dài dẫn đến số lượng người tham gia rời bỏ hệ thống lớn. Hưu trí là một trong những chế độ quan trọng ...

Tài liệu được xem nhiều: