Hoàn thiện quy định pháp luật trong xử lý tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 314.16 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 1 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết Hoàn thiện quy định pháp luật trong xử lý tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai phân tích những tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp luật khi tiến hành giải quyết, xử lý tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm này trong thực tiễn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hoàn thiện quy định pháp luật trong xử lý tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TRONG XỬ LÝ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Lại Sơn Tùng Học viện Cảnh sát nhân dân Tóm tắt Thời gian qua, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về quản lý đất đai đang diễn ra hết sức phức tạp. Bài viết phân tích những tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp luật khi tiến hành giải quyết, xử lý tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm này trong thực tiễn. Từ khóa: Quản lý đất đai; Tội pham; Vi phạm pháp luật. Abstract Complete legal provisions on handling of crimes of violating regulations on Land management Recently, the situation of crime and violations of the Law on Land management is taking place very complicatedly. The article analyzes the shortcomings and limitations in the provisions of the law when dealing with crimes of violating regulations on land management. On that basis, propose directions to improve the provisions of the law, contributing to improving the effectiveness of handling this crime in practice. Keywords: Land Management; Crime; Violation of the Law. 1. Khái niệm tội phạm vi phạm các quy định về Quản lý đất đai Tội Vi phạm các quy định về Quản lý đất đai được quy định tại Điều 229 thuộc Mục 3, Chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Trên cơ sở quy định tại Khoản 1, Điều 8 và Điều 229, BLHS năm 2015, có thể hiểu tội phạm vi phạm các quy định về Quản lý đất đai là hành vi do người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong lĩnh vực Quản lý đât đai để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, xâm phạm chế độ quản lý về đất đai của Nhà nước mà theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự. Nội dung quản lý Nhà nước về đất đai bao gồm các hoạt động cụ thể sau đây: Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về Quản lý và sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó; Các cơ quan và những người có chức năng, thẩm quyền quản lý đất đai thực hiện việc: Xác định địa giới hành chính; Lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính; Lập bản đồ hành chính; Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; Lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Thống kê, kiểm kê đất đai; Quản lý tài chính về đất đai; Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản; Quản lý giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; Thanh tra, kiểm tra các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; Giải quyết tranh chấp về đất đai, những khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai và quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai [1]. Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 165 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững 2. Thực trạng tội phạm vi phạm các quy định về Quản lý đất đai Khảo sát quá trình các cơ quan chức năng áp dụng các quy định của pháp luật khi xử lý tội phạm vi phạm các quy định về Quản lý đất đai trong thực tiễn cho thấy còn tồn tại một số bất cập, hạn chế sau đây. Thứ nhất, một số quy định tại Luật Đất đai (ĐĐ) năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật vẫn có nhiều điểm chưa thật sự rõ ràng, thiếu tính thống nhất và đồng bộ, dễ gây ra nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình thực thi. Cụ thể, theo Điểm c, Khoản 1, Điều 64, Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai đối với “Đất được giao, cho thuê không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền”. Tuy nhiên, tại Điểm d, Khoản 2, Điều 106, Luật Đất đai năm 2013 lại quy định Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận (GCN) đã cấp trong các trường hợp sau đây: “Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai” (tức là, không thu hồi GCN đối với trường hợp này); còn tại Khoản 5, Điều 87, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (Nghị định số 43) hướng dẫn “Nhà nước không thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trái pháp luật trong các trường hợp quy định tại Điểm d, Khoản 2, Điều 106 của Luật Đất đai nếu người được cấp Giấy chứng nhận đã thực hiện thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo quy định của pháp luật”. Điều bất hợp lý đã được thể hiện rõ nét qua các quy định nêu trên. Trong Luật Đất đai năm 2013 quy định chỉ thu hồi đất đối với trường hợp đất giao, cho thuê không đúng đối tượng, trong khi đó Nghị định số 43 lại quy định không được thu hồi GCN đã cấp trái pháp luật đối với người được cấp GCN đã thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất khiến cho các cơ quan thực thi pháp luật khó áp dụng và xử lý trong thực tiễn. Điểm bất hợp lý này đã làm bộc lộ ra những sơ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hoàn thiện quy định pháp luật trong xử lý tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TRONG XỬ LÝ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Lại Sơn Tùng Học viện Cảnh sát nhân dân Tóm tắt Thời gian qua, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật về quản lý đất đai đang diễn ra hết sức phức tạp. Bài viết phân tích những tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp luật khi tiến hành giải quyết, xử lý tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm này trong thực tiễn. Từ khóa: Quản lý đất đai; Tội pham; Vi phạm pháp luật. Abstract Complete legal provisions on handling of crimes of violating regulations on Land management Recently, the situation of crime and violations of the Law on Land management is taking place very complicatedly. The article analyzes the shortcomings and limitations in the provisions of the law when dealing with crimes of violating regulations on land management. On that basis, propose directions to improve the provisions of the law, contributing to improving the effectiveness of handling this crime in practice. Keywords: Land Management; Crime; Violation of the Law. 1. Khái niệm tội phạm vi phạm các quy định về Quản lý đất đai Tội Vi phạm các quy định về Quản lý đất đai được quy định tại Điều 229 thuộc Mục 3, Chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Trên cơ sở quy định tại Khoản 1, Điều 8 và Điều 229, BLHS năm 2015, có thể hiểu tội phạm vi phạm các quy định về Quản lý đất đai là hành vi do người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong lĩnh vực Quản lý đât đai để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, xâm phạm chế độ quản lý về đất đai của Nhà nước mà theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự. Nội dung quản lý Nhà nước về đất đai bao gồm các hoạt động cụ thể sau đây: Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về Quản lý và sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó; Các cơ quan và những người có chức năng, thẩm quyền quản lý đất đai thực hiện việc: Xác định địa giới hành chính; Lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính; Lập bản đồ hành chính; Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; Lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất; Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Thống kê, kiểm kê đất đai; Quản lý tài chính về đất đai; Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản; Quản lý giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; Thanh tra, kiểm tra các quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; Giải quyết tranh chấp về đất đai, những khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai và quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai [1]. Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 165 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững 2. Thực trạng tội phạm vi phạm các quy định về Quản lý đất đai Khảo sát quá trình các cơ quan chức năng áp dụng các quy định của pháp luật khi xử lý tội phạm vi phạm các quy định về Quản lý đất đai trong thực tiễn cho thấy còn tồn tại một số bất cập, hạn chế sau đây. Thứ nhất, một số quy định tại Luật Đất đai (ĐĐ) năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật vẫn có nhiều điểm chưa thật sự rõ ràng, thiếu tính thống nhất và đồng bộ, dễ gây ra nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình thực thi. Cụ thể, theo Điểm c, Khoản 1, Điều 64, Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai đối với “Đất được giao, cho thuê không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền”. Tuy nhiên, tại Điểm d, Khoản 2, Điều 106, Luật Đất đai năm 2013 lại quy định Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận (GCN) đã cấp trong các trường hợp sau đây: “Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai” (tức là, không thu hồi GCN đối với trường hợp này); còn tại Khoản 5, Điều 87, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (Nghị định số 43) hướng dẫn “Nhà nước không thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trái pháp luật trong các trường hợp quy định tại Điểm d, Khoản 2, Điều 106 của Luật Đất đai nếu người được cấp Giấy chứng nhận đã thực hiện thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo quy định của pháp luật”. Điều bất hợp lý đã được thể hiện rõ nét qua các quy định nêu trên. Trong Luật Đất đai năm 2013 quy định chỉ thu hồi đất đối với trường hợp đất giao, cho thuê không đúng đối tượng, trong khi đó Nghị định số 43 lại quy định không được thu hồi GCN đã cấp trái pháp luật đối với người được cấp GCN đã thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất khiến cho các cơ quan thực thi pháp luật khó áp dụng và xử lý trong thực tiễn. Điểm bất hợp lý này đã làm bộc lộ ra những sơ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Quản lý đất đai Quy định về quản lý đất đai Lập bản đồ địa chính Quản lý địa giới hành chính Kế hoạch sử dụng đấtGợi ý tài liệu liên quan:
-
8 trang 336 0 0
-
11 trang 126 0 0
-
11 trang 108 0 0
-
9 trang 103 0 0
-
75 trang 100 0 0
-
8 trang 99 0 0
-
63 trang 92 0 0
-
67 trang 92 0 0
-
80 trang 91 0 0
-
65 trang 88 1 0