Danh mục

HOÀNG BÁ (Kỳ 3)

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 131.35 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tính vị: Vị đắng, tính hàn (Bản Kinh). Không độc (Biệt Lục). Vị đắng, cay (Trân Châu Nang). Vị đắng, tính hàn (Trung Dược Đại Từ Điển).+ Vị đắng, tính hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).Quy kinh: + Là thuốc của kinh túc Thái âm Tỳ, dẫn thuốc vào kinhtúc Thiếu âm Thận (Thang Dịch Bản Thảo). + Là thuốc của kinh túc Thiếu âm Thận, thủ Quyết âm Tâm bào; Dẫn thuốc vào kinh túc Thái dương Bàng quang (Y Học Nhập Môn). + Vào kinh túc Thiếu âm thận, thủ Thiếu âm Tâm (Bản...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HOÀNG BÁ (Kỳ 3) HOÀNG BÁ (Kỳ 3) Tính vị:+ Vị đắng, tính hàn (Bản Kinh).+ Không độc (Biệt Lục).+ Vị đắng, cay (Trân Châu Nang).+ Vị đắng, tính hàn (Trung Dược Đại Từ Điển). + Vị đắng, tính hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu). Quy kinh: + Là thuốc của kinh túc Thái âm Tỳ, dẫn thuốc vào kinhtúc Thiếu âm Thận(Thang Dịch Bản Thảo). + Là thuốc của kinh túc Thiếu âm Thận, thủ Quyết âm Tâm bào; Dẫnthuốc vào kinh túc Thái dương Bàng quang (Y Học Nhập Môn). + Vào kinh túc Thiếu âm thận, thủ Thiếu âm Tâm (Bản Thảo Kinh Giải). + Vào kinh Thận, Bàng quang (Trung Dược Đại Từ Điển). + Vào kinh Thận và Bàng Quang (Đông Dược Học Thiết Yếu). Tham Khảo: + Hoàng bá bẩm thụ được khí chí âm cho nên tính của nó mát mẻ, thanhcao vậy (Bản Thảo Kinh Sơ). + Hoàng bá người xưa vẫn dùng chung với Tri mẫu hợp với bài Lục Vị,gọi là Tri Bá Bát Vị Hoàn. Có khi lại dùng Tri mẫu, Hoàng bá, mỗi thứ 40g, tẩmrượu cho thấm rồi bồi khô, tán bột. Lại thêm Quế vào nữa, gọi là Tư Thận Hoàn,có thể giúp cho chân âm, đó cũng chỉ là 1 thuyết vậy thôi, thế mà thiên hạ lấy làmhấp dẫn mà tôn sùng dùng nó rất nhiều (Bản Thảo Cầu Chân). + Hoàng bá tính hàn mà trầm, dùng sống thì tả thực hỏa; Dùng chín khônghại dạ dầy; Chế với rượu trị bệnh ở thượng tiêu; Chế với nước trị bệnh ở hạ tiêu;Chế với mật trị bệnh ở trung tiêu (Bản Thảo Cương Mục). + Hoàng bá vị đắng tính lạnh, trầm mà giáng xuống là thuốc dẫn vào kinhtúc thiếu âm, túc thái dương, nó làm mát xuống cho hỏa của long lôi, tư nhuận chosự khô kiệt của thận thủy, sơ thông được chứng bí tiểu tiện, khử sưng húp ở hạtiêu, hễ mắt đỏ tai ù, lở miệng đái đường, lỵ ra máu, nôn ra máu, chảy máu cam,đau lưng mỏi gối, theo ngụ ý của tôi th ì Hoàng bá chế mạng môn hỏa ở hạ tiêu,hỏa ở trong âm. Tri mẫu tư phế kim ở thượng tiêu, nguồn gốc của việc sinh thủy.Vì rằng cái hỏa tà nó đốt lên được thì làm cho chân âm phải tiêu khô, khi chân âmtiêu khô thì tà hỏa lại càng làm dữ. Lấy cái đắng lạnh của Tri, Bá để ức Nam phòBắc (chế hỏa bổ thủy), nghĩa là dẹp hỏa xuống để giúp cho thận thủy, cũng ví nhưlà trời khô hạn lâu ngày mà được cơn mưa rào (Bản Thảo Đồ Giải). + Hoàng bá tính hàn, th ực hiện thời lệnh khắc nghiệt của mùa đông, vì vậynó vào riêng kinh thiếu âm. Nếu tả tướng hỏa thực, thì bộ xích phải Hồng Đại, ấnvào thấy có lực thì sao đen tạm dùng được. Người xưa cho rằng Hoàng bá khôngcó khả năng ôaâm, vì nhiệt hết thì âm không bị thương mà âm lớn mạnh, thực rakhông có gì là bổ lợi cho chứng thực nhiệt mà không lợi cho hư nhiệt. Tại sao cácthầy thuốc đời nay không để ý đến hư thực, lại cho rằng Hoàng bá là thuốc chủyếu để trừ nhiệt, trị lao, không biết rằng tính của Hoàng bá đã âm hàn, có thể làmtổn hai chân khí, sinh ra ăn uống kém. Hỏa chân nguy ên ở mệnh môn gặp Hoàngbá thì tiêu mất, chức năng vận hành của Tỳ Vị gặp Hoàng bá thì bị trở ngại.Nguyên khí đã hư lại dùng thuốc đắng lạnh, làm cho việc sinh cơ bị ngăn tuyệt,không có gì hại bằng (Dược Phẩm Vậng Yếu). + Hoàng Bá là vị thuốc cốt yếu của kinh túc Thiếu âm Thận, nhưng nếu nóđược Sài hồ dẫn đường thì nó vào được kinh Đởm, nếu được Hoàng liên, Cát căn,Thăng ma dẫn thì nó vào trường vị và kinh túc Thái âm Tỳ ttrị được chứng thấpnhiệt ứ trệ ở hạ tiêu. Nếu được sức giúp của Ngưu tất, Câu kỷ tử, Địa hoàng, Ngũvị tử, Miết giáp, Thanh hao thì nó có tác dụng ích âm, trừ nhiệt. Nếu đ ược Camcúc, Câu kỷ tử, Địa hoàng, Tật lê, Nữ trinh giúp sức thì nó có tác dụng ích tinhtủy, minh mục... Hoàng bá mà được Mộc qua, Phục linh, Thương truật, Bạch truật,Thạch hộc, Địa hoàng hỗ trợ thì có tác dụng trị những chứng thấp, mạnh chân;Được Bạch thược, Cam thảo hỗ trợ thì trị được chứng bụng đau do hỏa nhiệt(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). + Sách ‘Bản Thảo Diễn Nghĩa’ ghi: Hoàng bá, chỉ dùng nguyên vỏ của nó,tẩm mật nướng, hợp với Thanh đại, mỗi thứ 1 phần. Tán bột. Thêm Long não 4g,nghiền nhuyễn, dùng trị những người tâm tỳ quá nhiệt đến nỗi lưỡi lở loét, miệnglưỡi lở (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). + Hoàng cầm, Hoàng liên, Hoàng bá đều là thuốc đắng lạnh; nhưng Hoàngliên chuyên về thanh tâm hỏa, Hoàng cầm chuyên về thanh phế nhiệt, Hoàng bá lạichuyên về thanh thấp nhiệt ở hạ tiêu (Trung Dược Học Giảng Nghĩa). + Điểm giống nhau giữa Hoàng bá và Hoàng liên là cả hai đều có thể thanhnhiệt, giải độc, kiện Vị (Đông Dược Học Thiết Yếu). + Sách Nội Kinh ghi: “Muốn làm mạnh thận, thì phải dùng thuốc có vịđắng. Làm mạnh tức là bổ. Trong bài ‘Đại Bổ Âm Hoàn’ của Chu Đan Khê, dùngvị Hoàng bá là hợp ý sâu xa trong Nội Kinh” (Đông Dược Học Thiết Yếu). Phân biệt: Hoàng bá dùng làm thuốc ở Trung Quốc có hai loài chính làXuyên hoàng bá và Quan hoàng bá. Trong Xuyên hoàng bá có 2 loài dưới đây: 1- Cây Hoàng-bá Nga mi (Phellodendron chinensis Schneider ...

Tài liệu được xem nhiều: