Hoàng Việt, tên thật là Lê Chí Trực, còn có bút danh Lê Quỳnh, Lê Trực. Ông sinh năm 1928, quê ở xã An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Sáng tác âm nhạc từ năm 16 tuổi. Năm 1956, ra Bắc tập kết, học sáng tác tại Trường Âm nhạc Việt Nam. Năm 1958, ông theo học chuyên ngành sáng tác tại Nhạc viện Sofia (Bungari). Năm 1966, về nước, Hoàng Việt lại tiếp tục sát cánh cùng nhân dân tại chiến trường Nam Bộ. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HOÀNG VIỆT VÀ DẤU ẤN MÙA XUÂN TRONG TÌNH CA
HOÀNG VIỆT VÀ DẤU ẤN MÙA XUÂN TRONG TÌNH CA
Hoàng Việt, tên thật là Lê Chí Trực, còn có bút danh Lê Quỳnh, Lê Trực. Ông
sinh năm 1928, quê ở xã An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Sáng tác âm
nhạc từ năm 16 tuổi. Năm 1956, ra Bắc tập kết, học sáng tác tại Tr ường Âm
nhạc Việt Nam. Năm 1958, ông theo học chuyên ngành sáng tác tại Nhạc viện
Sofia (Bungari). Năm 1966, về nước, Hoàng Việt lại tiếp tục sát cánh cùng
nhân dân tại chiến trường Nam Bộ. Ngày chót tháng 12-1967, trong trận oanh
tác của giặc Mỹ, ông đã hy sinh khi chưa kịp hoàn thành tác phẩm giao hưởng
số 2 và những dự định của người nhạc sĩ. Hoàng Việt được truy tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996 (1).
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hoàng Việt đã là nhạc sĩ nổi tiếng với nhiều
ca khúc mang âm hưởng dân gian như Lá xanh, Ai nghe chiến dịch mùa xuân
(1950), Tin tưởng, Đêm mưa dầm (1951), Lên ngàn (1952), Lửa sáng, Nhạc
rừng (1953), Mùa lúa chín (1954)..., mỗi bài đều gắn với những bối cảnh lịch
sử cụ thể, và qua từng năm, bút pháp của nhạc sĩ càng trở nên điêu luyện hơn.
Cái cách mà Hoàng Việt để lại dấu ấn cho người nghe không phải là những
khẩu hiệu xơ cứng, mà ngay trong bối cảnh vô cùng khó khăn của cuộc kháng
chiến, người ta vẫn thấy một sự vui tươi, nhẹ nhàng đến lãng mạn được thể
hiện ở từng ca khúc. Bởi, Hoàng Việt là người con của Nam Bộ, là nhạc sĩ của
người dân Nam Bộ.
Không dừng lại ở việc xây dựng hình tượng âm nhạc thông qua ngôn ngữ âm
nhạc dân gian Nam Bộ, ông còn thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ âm
nhạc mới để thể hiện những điều muốn nói. Bài Tình ca đánh dấu một bước
ngoặt mới trong cuộc đời sáng tác của người nhạc sĩ tài ba này.
Đó là vào mùa xuân năm 1957, tiết trời vẫn còn vương vấn cái lạnh của mùa
đông xứ Bắc. Người nhạc sĩ Nam Bộ lúc đó đang là học viên của Trường Âm
nhạc Việt Nam ở 13 Cao Bá Quát - Hà Nội. Cảnh xuân, dù trong chiến tranh
hay hòa bình, thì nó vẫn là cái cớ để đẩy tiềm thức của con người nhớ về nơi
mà họ đã sinh ra và lớn lên. Ở đó với nhiều nỗi buồn, niềm vui, theo năm tháng
đã trở thành kỷ niệm gắn chặt suốt hành trình của cuộc đời con người. Hoàng
Việt, tất nhiên chẳng là người nằm ngoài quy luật đó. Bằng trái tim đa cảm của
người nhạc sĩ trẻ, nỗi niềm nhớ quê, nhớ vợ, nhớ bạn bè, người thân, có lẽ
trong khung cảnh ngày xuân đất Bắc lại bùng lên mạnh mẽ trong ông hơn bao
giờ hết.
Đúng thời gian ấy, một niềm vui trong cái éo le nghịch lý đã xuất hiện. Vui là
vì Hoàng Việt nhận được thư của vợ từ Sài Gòn gửi ra chứa đựng bao tình cảm
riêng tư. Cái éo le, nghịch lý mà người nhạc sĩ không ngờ tới đó là hành trình
của bước thư vô cùng ngoằn ngèo, trắc trở, từ Sài Gòn sang Pari, lòng vòng qua
một số nước rồi tới Hà Nội. Thế rồi, cái đích phải đến đã đến. Hoàng Việt nhận
được thư trong tâm trạng vô cùng phấn chấn. Ông nghĩ đến nỗi khổ của người
vợ phải xa cách chồng, sống trong vòng cương tỏa, o ép của kẻ thù... Một cảm
xúc mãnh liệt về tấm lòng thủy chung của những lứa đôi trước phong ba bão
táp của cuộc đời, khát vọng về ngày thống nhất đoàn tụ đã bùng lên trong ông
(2). Và, trái tim của người nhạc sĩ đã được cộng hưởng, dồn nén đến đỉnh điểm
từ tình yêu quê hương đất nước với tình cảm riêng tư, để một đêm thức trắng
cho bản Tình ca ra đời.
Điều đáng chú ý là, ở thời điểm đó, Tình ca đã gây nên một chấn động lớn
trong giới âm nhạc nói riêng và giới nghệ thuật nói chung. Nhiều người cho
rằng Hoàng Việt quá liều trong việc đề cập tới tình yêu đôi lứa, khi mà điều
kiện lịch sử chưa cho phép. Điều đó có một phần đúng, nh ưng chưa đủ. Bởi,
Tình ca của Hoàng Việt, trong nó chứa đựng nhiều điều hợp lý, mà nói theo lời
của Mác thì: cái gì hợp lý sẽ tồn tại. Nhìn sâu hơn, tính hợp lý đó được đặt theo
chiều ngang của lịch sử văn hóa âm nhạc nước nhà. Rõ ràng Tình ca là điểm
nối giữa cái đã có của quá khứ với hiện tại và cái sẽ có ở tương lai.
Tính từ thời điểm ấy, ngược dòng thời gian hơn 10 năm về trước, hệ quả của
cuộc giao lưu văn hóa giữa nước ta với các nước phương Tây (thông qua văn
hóa Pháp) làm xuất hiện nhiều hiện tượng văn hóa mới, trong đó có âm nhạc.
Âm nhạc mới (tính đến nay đã trên dưới 70 năm, nhưng vẫn chưa có một tên
gọi hay thuật ngữ nào bộc lộ đúng với nội hàm của nó, nên không ít người gọi
loại này là tân nhạc hay nhạc cải cách), những năm tháng trước cách mạng có
sự phân ra thành ba dòng ca khúc: cách mạng, yêu nước tiến bộ (hoài vọng lịch
sử) và tiền chiến (trữ tình lãng mạn). Cũng bởi do hoàn cảnh lịch sử chi phối,
nên chỉ sau mấy năm hình thành, dòng ca khúc hoài vọng lịch sử đã hợp lưu
chảy cùng dòng ca khúc cách mạng. Riêng với dòng ca khúc trữ tình lãng mạn
thì bị đứt đoạn, nhưng nó vẫn âm ỉ cháy trong tâm hồn của nhiều nhạc sĩ. Như
vậy, Tình ca của Hoàng Việt ra đời là sự tiếp nối chủ đề tình yêu của dòng ca
khúc trữ tình lãng mạn, tất nhiên là ở một tâm thế khác.
Cũng ngay ở thời điểm đó, và quãng đường tiếp theo cho đến ngày đất nước
hoàn toàn giải phóng, nhiều nhạc sĩ ...