Hội làng Ngọc TrìLàng Ngọc Trì tên Nôm là làng Đìa, nguyên nghĩa là “Ao ngọc”, một vùng đất xưa có nhiều ao, hồ, đầm nằm ven sông Hồng. Tên Nôm của làng cũng như xóm Đìa hiện còn như là một chứng tích, dù rằng, ngày nay làng đã bị đô thị hoá rất mạnh.Ngọc Trì là một làng nhỏ, nên từ xưa đến tháng 8 - 1945 là một thôn của xã Cự Linh, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh (từ năm 1831 trở về trước là trấn Kinh Bắc). Đến đầu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hội làng Ngọc Trì Hội làng Ngọc TrìLàng Ngọc Trì tên Nôm là làng Đìa, nguyên nghĩa là “Ao ngọc”, một vùng đất xưacó nhiều ao, hồ, đầm nằm ven sông Hồng. Tên Nôm của làng cũng như xóm Đìahiện còn như là một chứng tích, dù rằng, ngày nay làng đã bị đô thị hoá rất mạnh.Ngọc Trì là một làng nhỏ, nên từ xưa đến tháng 8 - 1945 là một thôn của xã CựLinh, tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh (từ năm 1831trở về trước là trấn Kinh Bắc). Đến đầu thế kỷ XX vẫn là một thôn độc lập thuộctổng Cự Linh.Đền Trấn Vũ ở làng Ngọc Trì chưa rõ được dựng từ bao giờ. Bia về sự tích củaThần dựng năm Mậu Thìn đời Bảo Đại (năm 1928) khẳng định có từ thời Thục AnDương Vương - thế kỷ III trước Công nguyên (?) và Thần đã được phong làThượng đẳng thần. Thế kỷ XV, Vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497) có lần đi chinhphạt phương Nam đã đóng quân ở xã Cự Linh, được Thần ứng mộng nên cho dựngđền, tạc tượng gỗ để thờ, bài vị có ghi chữ vàng “Hiển linh Trấn Vũ quán”. Đếnthế kỷ XVII, đền được sửa lại mà dấu tích có thể nhận biết được qua tấm bia “CựLinh tự Trấn Vũ quán trùng tu bi ký”, tuy nội dung bia và dòng lạc khoản bị mờnhưng trán và diềm bia mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII.Đến năm Mậu Thân đời Vua Lê Hiển Tông (năm 1788), tượng gỗ bị hỏng, triềuđình lệnh cho quan viên cùng sắc mục làng Ngọc Trì đúc tượng đồng. Sự kiện nàyđược phản ánh trong một tấm bia khác còn lưu trong đền. Đến năm Nhâm Thânđời Bảo Đại (năm 1932), sửa lại tượng và Thượng cung, các năm sau lần lượt sửaTrung cung và Tiền đường, đến năm thứ 13 (năm 1938) thì hoàn thành. Như vậy,các bộ phận hợp thành của Trấn Vũ quán làng Ngọc Trì được sửa lại vào nhữngnăm gần cuối cùng của triều Nguyễn.Pho tượng đúc Huyền Thiên Trấn Vũ trong đền Ngọc Trì cao 3, 8 mét, chu vi 8mét, nặng 4 tấn, là tượng đồng thau lớn thứ hai ở nước ta hiện nay (sau tượng ởquán Trấn Vũ ở Quán Thánh). Tượng ở tư thế ngồi buông chân trên bệ, lưng thẳng,hai đùi để hơI doãng, đầu trần, mặc áo long bào đen có đai, hai chân không đI giày,tay để trước ngực, xoè ngón trỏ trong thế ấn quyết, gươm Thất tinh ở tay phải, mũigươm chống trên lưng rùa, mắt nhìn thẳng đầy uy lực. Tượng thể hiện sự điêuluyện trong nghệ thụât và kỹ thuật tạc tượng đồng lớn của người Việt. Ngoài bứctượng chủ đạo này, trong đền còn có 12 tượng “nguyên soái” - là các bộ tướng hộvệ Thần đi trừ yêu quái, đều đúc bằng đất. Trtong đền còn có bài vị của linh Langđại vương - thành hoàng làng Ngọc Trì, do đình làng không còn.Hàng năm, vào các ngày mồng 3 tháng Ba (ngày sinh của Thần và mồng 9 thángChín (ngày hoá), dân làng Ngọc Trì tổ chức hội. Ngoài tế lễ, có trò kéo co luồn dâyqua cột. Trai đinh các giáp cởi trần, đóng khố điều, chít khăn điều, chia thành haiphe : phe Mạn đường và phe Mạn chợ, mỗi phe có một tổng cờ (mặc áo đỏ, chítkhăn đỏ) chỉ huy. Sau lễ trình thánh, dưới sự điều khiển của vị tiên chỉ làng (mặcáo thụng xanh, đội mũ tế tay cầm trống khẩu làm hiệu lệnh), trai đinh hai phe tiếnhành kéo co qua một dây song to, nhẵn, dài 30 mét. Cột mốc là một cột trụ bằnglim, to như cột đình, chôn chặt xuống đất. Sợ dây song được luồn qua một lỗ củacột lim (từ lỗ xuống mặt đất cao bằng đầu gối người lớn. Trai đinh mỗi phe mộtđầu dây, từng người nắm dây ở các tư thế khác nhau. Sau khi có hiệu lệnh, haiTổng cờ hô và quệt lá cờ lệnh vào mặt các trai kéo của phe mình, để thúc giục họkéo dây. Các bà, các chị của từng phe dùng quạt, khăn lau chăm sóc trai đinh phemình. Hai bên kéo cho đến khi ngã ngũ.Theo quan niệm của dân làng, nếu pheMạn đường (mạn gốc) thắng thì năm đó làng có phúc lớn.Kéo co qua dây là trò chơi dân gian độc đáo, ít thấy trên vùng châu thổ Bắc Bộ.