Hôn mê gan mạn tính
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 281.33 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Biện chứng đông y: Khí huyết đều hư, dư nhiệt ở can đởm chưa hết, thấp đờm, che khiếu.Cách trị: Điều bổ khí huyết, phương hóa đàm thấp, thanh can khai khiếu.Đơn thuốc: Gia vị thanh can khai khiếu thang.Công thức: Sinh kỳ 15g, Đương qui 10g, Xích thược 15g, Bạch thược 15g, Hà thủ ô 30g, Nhân trần 15g, Hoắc hương 10g, Bội lan 10g, Hạnh nhân 10g, Quất hồng 10g, Uất kim 10g, Viễn chí 10g, Xương bồ 10g, Xuyên liên 4,5g, Hổ phách phấn 1,2g (chiêu với nước thuốc), Linh dương phấn 0,6g (chiêu với nước thuốc)....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hôn mê gan mạn tính Hôn mê gan mạn tínhBiện chứng đông y:Khí huyết đều hư, dư nhiệt ở can đởm chưa hết, thấp đờm, che khiếu.Cách trị:Điều bổ khí huyết, phương hóa đàm thấp, thanh can khai khiếu. Đơn thuốc: Gia vị thanh can khai khiếu thang. Công thức: Sinh kỳ 15g, Đương qui 10g, Xích thược 15g, Bạch thược 15g, Hà thủ ô30g, Nhân trần 15g, Hoắc hương 10g, Bội lan 10g, Hạnh nhân 10g, Quất hồng10g, Uất kim 10g, Viễn chí 10g, Xương bồ 10g, Xuyên liên 4,5g, Hổ phách phấn1,2g (chiêu với nước thuốc), Linh dương phấn 0,6g (chiêu với nước thuốc). Sắcuống, mỗi ngày 1 thang. Hiệu quả lâm sàng: Lưu XX, Nam 37 tuổi. Khám lần đầu ngày 30-5-1975. Nǎm 1972 ngườibệnh do xơ gan phải mổ cắt lách. Quá trình phẫu thuật tốt đẹp. Nhưng sau đó dầndần mất ngủ, đến mức suốt đêm không chợp mắt được, nghiêm trọng hơn có khiliên tục mười mấy ngày đêm không ngủ được yên giấc. Dần dần ban đêm lên cơn lưỡi, môi trên tê dại, hai cánh tay không nhấc caođược, mỗi lần kéo dài hơn 10 phút. Sau đó từng có những động tác vô ý thức, nóilảm nhảm, ban ngày đầu váng, nhức, trí nhớ rất kém, mất khả nǎng suy nghĩ, nônnóng dễ cáu gắt, chảy máu cam, mắt nhìn không rõ, đại tiện khó khǎn, phân rắn. Đã dùng nhiều loại thuốc tây và đông dược, châm cứu, lý liệu, thủy châm,nhĩ châm liền trong hơn 2 nǎm mà không kết quả. Khi đến khám, tay phải và mặttê dại, quá trưa hai tay không nhấc lên được, mất ngủ, đêm ra mồ hôi trộm, đôi khicó trạng thái lơ mơ. Bình thường miệng mũi khô, 3-4 ngày mới đại tiện một lần. Kiểm tra máu: transaminase glutamic 180 đơn vị, amoniac huyết 0,18mg%, lưỡi rêu vàng, mạch trầm, huyền. Cho uống Gia vị thanh can khai khiếuthang. Lấy bài thuốc này làm chính, vì ngủ không yên giấc nên thêm Táo nhân15g, Bách hợp 12g, Hợp hoan bì 12g, tổng cộng tất cả uống trên dưới trǎm thang,ngày càng ngủ được tốt hơn, về cơ bản hết các chứng váng đầu, hồi hộp, dễ cáuv.v... nhìn các vật rõ ràng, trí nhớ và khả nǎng suy nghĩ có phần phục hồi. Lưỡi rêu mỏng trắng, mạch trở nên trầm, hoạt, transaminase glutamic bìnhthường, amoniac huyết giảm còn 0,1mg%. Qua hỏi thǎm, nửa nǎm sau vẫn khôngtái phát. Bàn luận: Hôn mê gan mạn tính phần nhiều gặp ở các trường hợp xơ gan bản thân ganvà chức nǎng gan tổn thương, quá trình mạn tính phát triển, đến giai đoạn sau chứcnǎng gan suy kiệt, mất khả nǎng bù, xuất hiện chứng bệnh thuộc hệ thần kinh, đếngiai đoạn cuối có thể hoàn toàn hôn mê Bệnh nhên loại này phần nhiều là do bệnh lâu ngày chuyển thành hư, khíhuyết không đủ, âm dương đều thương tổn, can âm không đủ, huyết không muốican, hư phong nội đồng, ngoài ra thấp độc nhiệt tà ẩn náu trong phần huyết pháttriển thêm kích động hư phong, tà chính tranh chấp, dẫn đến có lơ mơ, bực bội dễtức giận, nhìn mọi vật không rõ, đầu váng, hay quên, mệt mỏi thích nằm, dạ dàyđầy cǎng đau, ǎn không thấy ngon v.v... hơn nữa nhiều trường hợp do uất ức lolắng, tức giận hoặc lao động quá sức mà đàm che, làm tắc khiếu, dẫn đến hôn mê. Tổng quát, phương pháp điều trụ là phải bổ hư phù chính. tinh thần khaikhiếu làm chủ, phụ thêm là thành lợi dư tà.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hôn mê gan mạn tính Hôn mê gan mạn tínhBiện chứng đông y:Khí huyết đều hư, dư nhiệt ở can đởm chưa hết, thấp đờm, che khiếu.Cách trị:Điều bổ khí huyết, phương hóa đàm thấp, thanh can khai khiếu. Đơn thuốc: Gia vị thanh can khai khiếu thang. Công thức: Sinh kỳ 15g, Đương qui 10g, Xích thược 15g, Bạch thược 15g, Hà thủ ô30g, Nhân trần 15g, Hoắc hương 10g, Bội lan 10g, Hạnh nhân 10g, Quất hồng10g, Uất kim 10g, Viễn chí 10g, Xương bồ 10g, Xuyên liên 4,5g, Hổ phách phấn1,2g (chiêu với nước thuốc), Linh dương phấn 0,6g (chiêu với nước thuốc). Sắcuống, mỗi ngày 1 thang. Hiệu quả lâm sàng: Lưu XX, Nam 37 tuổi. Khám lần đầu ngày 30-5-1975. Nǎm 1972 ngườibệnh do xơ gan phải mổ cắt lách. Quá trình phẫu thuật tốt đẹp. Nhưng sau đó dầndần mất ngủ, đến mức suốt đêm không chợp mắt được, nghiêm trọng hơn có khiliên tục mười mấy ngày đêm không ngủ được yên giấc. Dần dần ban đêm lên cơn lưỡi, môi trên tê dại, hai cánh tay không nhấc caođược, mỗi lần kéo dài hơn 10 phút. Sau đó từng có những động tác vô ý thức, nóilảm nhảm, ban ngày đầu váng, nhức, trí nhớ rất kém, mất khả nǎng suy nghĩ, nônnóng dễ cáu gắt, chảy máu cam, mắt nhìn không rõ, đại tiện khó khǎn, phân rắn. Đã dùng nhiều loại thuốc tây và đông dược, châm cứu, lý liệu, thủy châm,nhĩ châm liền trong hơn 2 nǎm mà không kết quả. Khi đến khám, tay phải và mặttê dại, quá trưa hai tay không nhấc lên được, mất ngủ, đêm ra mồ hôi trộm, đôi khicó trạng thái lơ mơ. Bình thường miệng mũi khô, 3-4 ngày mới đại tiện một lần. Kiểm tra máu: transaminase glutamic 180 đơn vị, amoniac huyết 0,18mg%, lưỡi rêu vàng, mạch trầm, huyền. Cho uống Gia vị thanh can khai khiếuthang. Lấy bài thuốc này làm chính, vì ngủ không yên giấc nên thêm Táo nhân15g, Bách hợp 12g, Hợp hoan bì 12g, tổng cộng tất cả uống trên dưới trǎm thang,ngày càng ngủ được tốt hơn, về cơ bản hết các chứng váng đầu, hồi hộp, dễ cáuv.v... nhìn các vật rõ ràng, trí nhớ và khả nǎng suy nghĩ có phần phục hồi. Lưỡi rêu mỏng trắng, mạch trở nên trầm, hoạt, transaminase glutamic bìnhthường, amoniac huyết giảm còn 0,1mg%. Qua hỏi thǎm, nửa nǎm sau vẫn khôngtái phát. Bàn luận: Hôn mê gan mạn tính phần nhiều gặp ở các trường hợp xơ gan bản thân ganvà chức nǎng gan tổn thương, quá trình mạn tính phát triển, đến giai đoạn sau chứcnǎng gan suy kiệt, mất khả nǎng bù, xuất hiện chứng bệnh thuộc hệ thần kinh, đếngiai đoạn cuối có thể hoàn toàn hôn mê Bệnh nhên loại này phần nhiều là do bệnh lâu ngày chuyển thành hư, khíhuyết không đủ, âm dương đều thương tổn, can âm không đủ, huyết không muốican, hư phong nội đồng, ngoài ra thấp độc nhiệt tà ẩn náu trong phần huyết pháttriển thêm kích động hư phong, tà chính tranh chấp, dẫn đến có lơ mơ, bực bội dễtức giận, nhìn mọi vật không rõ, đầu váng, hay quên, mệt mỏi thích nằm, dạ dàyđầy cǎng đau, ǎn không thấy ngon v.v... hơn nữa nhiều trường hợp do uất ức lolắng, tức giận hoặc lao động quá sức mà đàm che, làm tắc khiếu, dẫn đến hôn mê. Tổng quát, phương pháp điều trụ là phải bổ hư phù chính. tinh thần khaikhiếu làm chủ, phụ thêm là thành lợi dư tà.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hôn mê gan mạn tính bệnh học và điều trị thiên gia DP bài giảng bệnh học y học cổ truyềnGợi ý tài liệu liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 260 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 224 0 0 -
6 trang 168 0 0
-
120 trang 167 0 0
-
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 161 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 149 0 0 -
Tài liệu học tập Bệnh học nội khoa Y học cổ truyền
1503 trang 148 5 0 -
97 trang 124 0 0
-
Bài tiểu luận Triết học: Học thuyết âm dương, ngũ hành và vận dụng trong y, dược học cổ truyền
18 trang 118 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 117 0 0