IFRS – Mô hình chuyển đổi và các cơ hội, thách thức khi áp dụng tại Việt Nam
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 211.94 KB
Lượt xem: 25
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết sẽ tập trung phân tích các cơ hội và thách thức cũng như các ưu nhược điểm khi áp dụng mô hình Convergence Approach tức chuyển đổi theo hình thức xây dựng và hình thành bộ chuẩn mực BCTC Việt Nam (VFRS) bám sát nhất với các yêu cầu của IFRS. Cơ hội Duy trì sự tăng trưởng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài bằng việc xây dựng thành công lộ trình chuyển đổi cụ thể từng VAS sang VFRS. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
IFRS – Mô hình chuyển đổi và các cơ hội, thách thức khi áp dụng tại Việt Nam n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam IFRS – MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI VÀ CÁC CƠ HỘI, THÁCH THỨC KHI ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM #Bùi Văn Trịnh Deloitte Việt Nam Theo thống kê ngày 30/8/2016 của Ủy ban IAS (IASB), 137 trong tổng số 147 quốc gia và vùng lãnh thổ đã công bố cam kết của mình trong việc hỗ trợ 1 bộ CMKT quốc tế (IAS) ngoại trừ Albania, Belize, Bermuda, Cayman Islands, Egypt, Macao, Paraguay, Suriname, Switzerland và Việt Nam là chưa cụ thể hóa cam kết của mình. Trong số 137 quốc gia và vùng lãnh thổ đã cam kết này, có 122 quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu (require) toàn bộ hay phần lớn các công ty niêm yết trên thị trường của mình sử dụng IFRS và 15 quốc gia vùng lãnh thổ cho phép (permit) hoặc yêu cầu một số ít công ty niêm yết sử dụng. Thuật ngữ “yêu cầu” và “cho phép” được hiểu khác nhau tùy thuộc vào cách thức chuyển đổi mà một quốc gia áp dụng. Cho phép trong bối cảnh này, được hiểu là, công ty sẽ được miễn trừ nghĩa vụ lập và trình bày Báo cáo Tài chính (BCTC) theo Chuẩn mực Kế toán (CMKT) quốc gia nếu đã lập và trình bày BCTC theo IAS. Mặc dù, đã đưa ra tuyên bố của mình trong các cuộc trao đổi gần đây với các bên liên quan, Việt Nam vẫn đang là 1 trong 10 nước chưa đưa ra cam kết cụ thể/lộ trình cụ thể trong việc áp dụng IFRS. Nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn sắp đến mà Bộ Tài chính với vai trò là cơ quan chủ quản sẽ cùng với Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán sẽ phải thực hiện là, lựa chọn mô hình áp dụng IFRS phù hợp với Việt Nam và đưa ra cam kết cụ thể để đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng IFRS. Trong tài liệu hướng dẫn (IFRS Foundation – Adoption Guide) ban hành tháng 11/2003, có chỉ ra 2 cách thức áp dụng IFRS phổ biến được biết đến là Big Bang Approach và Convergence Approach. Big Bang Approach được hiểu là một quốc gia sẽ yêu cầu các doanh nghiệp (DN) bắt đầu áp dụng IFRS vào một thời điểm cụ thể hoặc là một số thời điểm khác nhau cho một số DN khác nhau về qui mô. Trong khi đó, Convergence Approach được hiểu là một quốc gia sẽ chuyển tải nội dung của từng IFRS vào trong nội dung của CMKT quốc gia (ví dụ: Singapore FRSs, Hong Kong FRSs,…). Việc chuyển đổi này sẽ được thực hiện theo lộ trình (road map) xác định trước đến khi hoàn thành thì các DN áp dụng bộ CMKT quốc gia đó, sẽ có thể công bố tính tuân thủ so với IFRS trên BCTC của mình, dưới sự xác nhận của IASB. Như đã phân tích ở trên, cơ hội và thách thức sẽ khác nhau tùy thuộc vào mô hình áp dụng mà một quốc gia sử dụng. Cụ thể là, chúng ta sẽ “cho phép” hay chúng ta sẽ “yêu cầu” DN áp dụng IFRS. Chúng ta sẽ áp dụng mô hình Big Bang hay chúng ta áp dụng mô hình Covergence Approach trong việc áp dụng IFRS tại Việt Nam. 25 n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Đối với mô hình chuyển đổi theo hình thức Big Bang Approach, do không phải là mô hình chuyển đổi được nhiều quốc gia lựa chọn áp dụng nên chúng ta sẽ không có nhiều trường hợp để xem xét và học hỏi kinh nghiệm. Việc yêu cầu một số DN niêm yết sử dụng IFRS vào một thời gian cụ thể nào đó là một sức ép rất lớn đối với các DN được yêu cầu và tạo rủi ro lớn hơn về việc tuân thủ toàn bộ yêu cầu của IFRS trong một thời gian nhất định. Chưa kể việc áp dụng mô hình này có thể dẫn đến sự khác biệt không thể so sánh được giữa các DN trong một thị trường, giữa các qui định pháp lý hiện hành về thuế và cụ thể là sẽ có 2 bộ CMKT (VAS và IFRS) cùng tồn tại. Thay vào đó, mô hình áp dụng IFRS theo hình thức Convergence Approach được nhiều quốc gia lựa chọn vì các ưu điểm mà nó mang lại mặc dù nó vẫn có những vấn đề và thách thức của riêng nó. Bài viết sẽ tập trung phân tích các cơ hội và thách thức cũng như các ưu nhược điểm khi áp dụng mô hình Convergence Approach tức chuyển đổi theo hình thức xây dựng và hình thành bộ chuẩn mực BCTC Việt Nam (VFRS) bám sát nhất với các yêu cầu của IFRS. Cơ hội Duy trì sự tăng trưởng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài Bằng việc xây dựng thành công lộ trình chuyển đổi cụ thể từng VAS sang VFRS. Việt Nam sẽ tiến thêm một bước quan trọng nữa, trong việc thể hiện và khẳng định cam kết của mình với các bên liên quan, trong việc hướng đến ngôn ngữ kế toán quốc tế (IFRS). Lộ trình chuyển đổi cụ thể này sẽ là đòn bẩy giúp Việt Nam tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao hơn nữa lòng tin của nhà đầu tư hiện tại và qua đó góp phần vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định của đất nước và là nền tảng cho sự phát triển trong tương lai. Cho phép lựa chọn và áp dụng lần lượt các nguyên tắc kế toán Mục tiêu lớn nhất của lộ trình chuyển đổi VAS thành VFRS là làm cho VFRS sát với IFRS nhất có thể. Điều đó không có nghĩa là hoàn toàn trùng khớp trên mọi nguyên tắc. IFRS là một bộ chuẩn mực tập hợp các nguyên tắc kế toán điều chỉnh cho toàn bộ các hoạt động giao dịch kinh tế của các quốc gia, do đó không thể tránh khỏi các vấn đề khác biệt phát sinh nội tại ở mỗi quốc gia. Ví dụ như: Singapore, Hàn Quốc đều coi bộ chuẩn mực của họ là gần như giống với quốc tế chứ không phải là hoàn toàn. Các quốc gia này vẫn đang duy trì những khác biệt nhất định ví dụ như bỏ qua vài lựa chọn trong IFRS, hoặc thay đổi thời gian áp dụng tại quốc gia của mình. Ngay cả với cộng đồng chung Châu Âu, họ cũng có những khác biệt nhất định so với IFRS (ví dụ họ không áp dụng chính sách “fair value hedge accounting for portfolio hedge” liên quan đến rủi ro về lãi suất của IAS39) đó là lý do họ gọi là “Bộ chuẩn mực IFRS áp dụng ở EU”, tuy nhiên họ vẫn được xem là một khu vực áp dụng IFRS. Việc thực hiện xây dựng VFRS, sẽ cho phép chúng ta duy trì tính đặc thù của nền kinh tế của Việt Nam lồng ghép trong các nguyên tắc được chấp nhận chung của quốc tế ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
IFRS – Mô hình chuyển đổi và các cơ hội, thách thức khi áp dụng tại Việt Nam n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam IFRS – MÔ HÌNH CHUYỂN ĐỔI VÀ CÁC CƠ HỘI, THÁCH THỨC KHI ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM #Bùi Văn Trịnh Deloitte Việt Nam Theo thống kê ngày 30/8/2016 của Ủy ban IAS (IASB), 137 trong tổng số 147 quốc gia và vùng lãnh thổ đã công bố cam kết của mình trong việc hỗ trợ 1 bộ CMKT quốc tế (IAS) ngoại trừ Albania, Belize, Bermuda, Cayman Islands, Egypt, Macao, Paraguay, Suriname, Switzerland và Việt Nam là chưa cụ thể hóa cam kết của mình. Trong số 137 quốc gia và vùng lãnh thổ đã cam kết này, có 122 quốc gia và vùng lãnh thổ yêu cầu (require) toàn bộ hay phần lớn các công ty niêm yết trên thị trường của mình sử dụng IFRS và 15 quốc gia vùng lãnh thổ cho phép (permit) hoặc yêu cầu một số ít công ty niêm yết sử dụng. Thuật ngữ “yêu cầu” và “cho phép” được hiểu khác nhau tùy thuộc vào cách thức chuyển đổi mà một quốc gia áp dụng. Cho phép trong bối cảnh này, được hiểu là, công ty sẽ được miễn trừ nghĩa vụ lập và trình bày Báo cáo Tài chính (BCTC) theo Chuẩn mực Kế toán (CMKT) quốc gia nếu đã lập và trình bày BCTC theo IAS. Mặc dù, đã đưa ra tuyên bố của mình trong các cuộc trao đổi gần đây với các bên liên quan, Việt Nam vẫn đang là 1 trong 10 nước chưa đưa ra cam kết cụ thể/lộ trình cụ thể trong việc áp dụng IFRS. Nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn sắp đến mà Bộ Tài chính với vai trò là cơ quan chủ quản sẽ cùng với Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán sẽ phải thực hiện là, lựa chọn mô hình áp dụng IFRS phù hợp với Việt Nam và đưa ra cam kết cụ thể để đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng IFRS. Trong tài liệu hướng dẫn (IFRS Foundation – Adoption Guide) ban hành tháng 11/2003, có chỉ ra 2 cách thức áp dụng IFRS phổ biến được biết đến là Big Bang Approach và Convergence Approach. Big Bang Approach được hiểu là một quốc gia sẽ yêu cầu các doanh nghiệp (DN) bắt đầu áp dụng IFRS vào một thời điểm cụ thể hoặc là một số thời điểm khác nhau cho một số DN khác nhau về qui mô. Trong khi đó, Convergence Approach được hiểu là một quốc gia sẽ chuyển tải nội dung của từng IFRS vào trong nội dung của CMKT quốc gia (ví dụ: Singapore FRSs, Hong Kong FRSs,…). Việc chuyển đổi này sẽ được thực hiện theo lộ trình (road map) xác định trước đến khi hoàn thành thì các DN áp dụng bộ CMKT quốc gia đó, sẽ có thể công bố tính tuân thủ so với IFRS trên BCTC của mình, dưới sự xác nhận của IASB. Như đã phân tích ở trên, cơ hội và thách thức sẽ khác nhau tùy thuộc vào mô hình áp dụng mà một quốc gia sử dụng. Cụ thể là, chúng ta sẽ “cho phép” hay chúng ta sẽ “yêu cầu” DN áp dụng IFRS. Chúng ta sẽ áp dụng mô hình Big Bang hay chúng ta áp dụng mô hình Covergence Approach trong việc áp dụng IFRS tại Việt Nam. 25 n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Đối với mô hình chuyển đổi theo hình thức Big Bang Approach, do không phải là mô hình chuyển đổi được nhiều quốc gia lựa chọn áp dụng nên chúng ta sẽ không có nhiều trường hợp để xem xét và học hỏi kinh nghiệm. Việc yêu cầu một số DN niêm yết sử dụng IFRS vào một thời gian cụ thể nào đó là một sức ép rất lớn đối với các DN được yêu cầu và tạo rủi ro lớn hơn về việc tuân thủ toàn bộ yêu cầu của IFRS trong một thời gian nhất định. Chưa kể việc áp dụng mô hình này có thể dẫn đến sự khác biệt không thể so sánh được giữa các DN trong một thị trường, giữa các qui định pháp lý hiện hành về thuế và cụ thể là sẽ có 2 bộ CMKT (VAS và IFRS) cùng tồn tại. Thay vào đó, mô hình áp dụng IFRS theo hình thức Convergence Approach được nhiều quốc gia lựa chọn vì các ưu điểm mà nó mang lại mặc dù nó vẫn có những vấn đề và thách thức của riêng nó. Bài viết sẽ tập trung phân tích các cơ hội và thách thức cũng như các ưu nhược điểm khi áp dụng mô hình Convergence Approach tức chuyển đổi theo hình thức xây dựng và hình thành bộ chuẩn mực BCTC Việt Nam (VFRS) bám sát nhất với các yêu cầu của IFRS. Cơ hội Duy trì sự tăng trưởng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài Bằng việc xây dựng thành công lộ trình chuyển đổi cụ thể từng VAS sang VFRS. Việt Nam sẽ tiến thêm một bước quan trọng nữa, trong việc thể hiện và khẳng định cam kết của mình với các bên liên quan, trong việc hướng đến ngôn ngữ kế toán quốc tế (IFRS). Lộ trình chuyển đổi cụ thể này sẽ là đòn bẩy giúp Việt Nam tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao hơn nữa lòng tin của nhà đầu tư hiện tại và qua đó góp phần vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định của đất nước và là nền tảng cho sự phát triển trong tương lai. Cho phép lựa chọn và áp dụng lần lượt các nguyên tắc kế toán Mục tiêu lớn nhất của lộ trình chuyển đổi VAS thành VFRS là làm cho VFRS sát với IFRS nhất có thể. Điều đó không có nghĩa là hoàn toàn trùng khớp trên mọi nguyên tắc. IFRS là một bộ chuẩn mực tập hợp các nguyên tắc kế toán điều chỉnh cho toàn bộ các hoạt động giao dịch kinh tế của các quốc gia, do đó không thể tránh khỏi các vấn đề khác biệt phát sinh nội tại ở mỗi quốc gia. Ví dụ như: Singapore, Hàn Quốc đều coi bộ chuẩn mực của họ là gần như giống với quốc tế chứ không phải là hoàn toàn. Các quốc gia này vẫn đang duy trì những khác biệt nhất định ví dụ như bỏ qua vài lựa chọn trong IFRS, hoặc thay đổi thời gian áp dụng tại quốc gia của mình. Ngay cả với cộng đồng chung Châu Âu, họ cũng có những khác biệt nhất định so với IFRS (ví dụ họ không áp dụng chính sách “fair value hedge accounting for portfolio hedge” liên quan đến rủi ro về lãi suất của IAS39) đó là lý do họ gọi là “Bộ chuẩn mực IFRS áp dụng ở EU”, tuy nhiên họ vẫn được xem là một khu vực áp dụng IFRS. Việc thực hiện xây dựng VFRS, sẽ cho phép chúng ta duy trì tính đặc thù của nền kinh tế của Việt Nam lồng ghép trong các nguyên tắc được chấp nhận chung của quốc tế ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế Chuẩn mực kế toán quốc tế Mô hình Convergence Approach Vốn đầu tư nước ngoài Chuẩn mực báo cáo tài chính Việt NamTài liệu liên quan:
-
Các bước cơ bản trình bày báo cáo tài chính hợp nhất theo chuẩn mực kế toán quốc tế
6 trang 176 0 0 -
117 trang 168 0 0
-
Xu hướng chuyển đổi báo cáo tài chính Việt Nam theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
5 trang 139 0 0 -
Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính: Thách thức và yêu cầu đặt ra với Việt Nam
7 trang 94 0 0 -
127 trang 71 0 0
-
Đề xuất giải pháp thực hiện hiệu quả lộ trình chuyển đổi sang IFRS tại Việt Nam
10 trang 68 0 0 -
Bài giảng Lý thuyết kế toán - Chương 5: Quá trình hoà hợp trong kế toán quốc tế
31 trang 61 0 0 -
15 trang 44 0 0
-
1 trang 42 0 0
-
3 trang 42 0 0