IQ là hai chữ viết tắt từ tiếng Anh "lntelligent Quotient" tức là chỉ số thông minh và
được dùng trong ngành tâm lý học để định giá trị thông minh của con người. Khi nói IQ
cao, người ta thường nghĩ đến sự thông minh và ngược lại. Cách đây một thập kỷ điều
này từng được khẳng định, nhưng nay thì khác. Nhiều nghiên cứu của các nhà khoa
học trên thế giới cho thấy chỉ số IQ không hoàn toàn là thước đo trí thông minh. Muốn
xác định một người có bộ óc vượt trội hơn những người khác, còn cần...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
IQ có đo được trí tuệ ?
IQ có đo được trí tuệ ?
Thứ Sáu 7, Tháng Chín 2007, do BTV Khoa hoc
IQ là hai chữ viết tắt từ tiếng Anh lntelligent Quotient tức là chỉ số thông minh và
được dùng trong ngành tâm lý học để định giá trị thông minh của con người. Khi nói IQ
cao, người ta thường nghĩ đến sự thông minh và ngược lại. Cách đây một thập kỷ điều
này từng được khẳng định, nhưng nay thì khác. Nhiều nghiên cứu của các nhà khoa
học trên thế giới cho thấy chỉ số IQ không hoàn toàn là thước đo trí thông minh. Muốn
xác định một người có bộ óc vượt trội hơn những người khác, còn cần nhiều thứ
ngoài chỉ số thông minh.
Làm thế nào để đo được IQ
Lần đầu tiên, chỉ số IQ được sử dụng ở Pháp vào đầu thế kỷ 20 khi người ta muốn
khắc phục những khó khăn của trẻ lúc bắt đầu đi học. Tiếp đó, bài kiểm tra trắc
nghiệm IQ được coi là hoàn chỉnh nhất của chuyên gia Hans Aizenk. Bài trắc nghiệm
trở nên vô cùng phổ biến tại châu Âu trong những năm 1950. Mọi người tính điềm IQ
của mình cả ở văn phòng và những buổi tiệc.
Theo ông Hans Aizenk, muốn xác định IQ cần phải qua một bài kiểm tra với các câu
hỏi về suy luận logic, so sánh, số học, trí nhớ, kiến thức tổng quát, tính toán, xếp hình
logic, sau đó so sánh tỉ lệ số điểm họ đạt được với số điểm trung bình của những
nhóm tuổi khác nhau đạt được. IQ không phải là một số đo tuyệt đối, các nhà khoa
học coi IQ là một tỉ lệ giữa tuổi trí lực và “tuổi thực tế” của con người .
Việc xác định chỉ số IQ là nhằm chẩn đoán và chữa trị những chứng bệnh gây hạn chế
đến khả năng học tập và xác định trình độ học vấn cũng như tuyển chọn nhân viên.
Tuy nhiên, cũng không nên dựa vào những con số về IQ để đánh giá khả năng một con
người, bởi bài kiểm tra IQ không có tính chất kiểm tra toàn diện.
Trong suốt cuộc đời của một con người chỉ số IQ biến đổi và không phải lúc nào cũng
có hướng tăng lên. Ở phần lớn các thần đồng, chỉ số IQ dần giảm đi so với lúc mới
được phát hiện, điều đó chứng tỏ độ thông minh trí tuệ theo tuổi của họ đã sớm vượt
qua những người đồng niên, bởi vậy nó đang phát triển chậm lại để phù hợp với trình
tự thời gian cuộc sống.
Một cá nhân có thể cố gắng hoàn chỉnh sự học hỏi để gia tăng IQ lên đến 30 điểm.
Một thí dụ điển hình là người Nhật đang cố gắng đào luyện cho trẻ con gia tăng trí óc
bằng các giáo trình đặc biệt kết hợp bồi bổ dinh dưỡng. Còn với một chương trình
tập luyện khó khăn và kỷ luật, IQ của trẻ em siêu việt có thể tăng đến 190 hay hơn
nữa. Tuy nhiên, chỉ có một số ít người có khả năng theo được những bài tập luyện trí
óc phức tạp này.
Ảnh hưởng của IQ đến đời sống con người
Hiệu quả thực tế của chỉ số thông minh IQ được kiểm chứng bằng cách kiểm soát
“độ liên quan giữa IQ và thực tế cuộc sống” với thước đo chuẩn là 1 cho thấy học vấn
là IQ có độ liên quan là 0,5. Như vậy một người có IQ cao chưa chắc đã học siêu giỏi.
Tiếp đó, tổng số năm học tập và IQ là 55; IQ và điều kiện kinh tế xã hội của cha mẹ
là 0,33. Con số này cho thấy môi trường xung quanh, điều kiện sống cũng có tác động
đến việc tăng giảm chỉ số IQ. Hiệu suất làm việc và IQ là 0,54. Mối liên quan IQ của
vợ và chồng là 0,4, theo đó, nếu hai bên có sự hiểu biết tương đồng hay có những suy
luận logic ngang nhau sẽ có sự ăn ý, hoà hợp. Bên cạnh đó. các nhà khoa học cho rằng
người có IQ cao thường khoẻ khoắn hơn những người có IQ thấp hơn. Điều này được
lý giải bởi họ có khả năng tránh né những rủi ro, biết bảo vệ sức khoẻ và có đời sống
kinh tế khá, giúp chống lại trầm cảm, tuyệt vọng.
Đặc biệt thú vị là chiều cao của bố mẹ và đứa trẻ liên quan đến IQ là 0,47, trong khi
đó, cha mẹ siêu thông minh lại có khuynh hướng sinh ra con cái ít thông minh hơn và
các bậc cha mẹ “thường thường” lại có thể sinh con thông minh hơn. Đây là định luật
hướng về trung bình mà người ta vẫn thường nhắc đến trong di truyền học.
Một điều đặc biệt khác là người có IQ cao lại có trí nhớ “tồi trong khi người có trí
thông minh tương đối thấp thường có trí nhớ dai. Do đó, chúng ta mới có các nhân vật
bác học đãng trí.
Thành công không chịu ảnh hưởng của trí thông minh mà nó liên quan đến phong cách
cá nhân sử dụng trí thông minh của mình như thế nào để mang lại kết quả tốt. Đó là
kết luận của các nhà khoa học khi nói về sự ảnh hưởng của IQ đến cuộc sống con
người.
Thống kê ở Anh và Mỹ cho thấy có đến 35% thành công trong cuộc đời là nhờ chỉ số
IQ; 75% còn lại là nhờ các vế khác. Một điếu thú vị là theo trắc nghiệm của các nhà
khoa học, chỉ số IQ cao nhất toàn cầu không chỉ ở các nước giàu có, phát triển châu
Âu, châu Mỹ mà lại ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Việt
Nam, Thái Lan... Tại những nước này, chỉ số IQ trung bình là 105 đơn vị. Đứng vị trí
thứ hai là các nước châu Âu, Mỹ, Canada, Australia, New Zealand có chỉ số IQ trung
bình là 100, Nam Á, Bắc Phi và đa phần các nước châu Mỹ Latinh có chỉ số IQ trung
bình là 85. Còn châu Phi nói chung và các nước vùng biển Caribe có chỉ số IQ trung
bình dưới 70.
IQ cao có phải là thông minh?
Người ta chia ra các định ...