Kết quả ban đầu khảo nghiệm một số giống cà phê chè lai nhập nội tại Tây Bắc
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 345.13 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết Kết quả ban đầu khảo nghiệm một số giống cà phê chè lai nhập nội tại Tây Bắc giới thiệu những kết quả ban đầu đã đạt được từ các mô hình thử nghiệm giống cà phê chè nhập nội mới tại Tây Bắc Việt Nam thuộc dự án BREEFCAFS về sinh trưởng, và năng suất, chất lượng qua vụ thu hoạch đầu tiên năm 2020.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kết quả ban đầu khảo nghiệm một số giống cà phê chè lai nhập nội tại Tây BắcTạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 08(141)/2022KẾT QUẢ BAN ĐẦU KHẢO NGHIỆM MỘT SỐ GIỐNG CÀ PHÊ CHÈ LAI NHẬP NỘI TẠI TÂY BẮC Nguyễn ị Quỳnh Chang1*, Nguyễn ị Vân1, uan Sarzynski 4, Nguyễn Quang Trung1, Nguyễn Phi Hùng1, Hoàng Xuân ảo1, Lừ ị Yến1, Lưu Ngọc Quyến1, Nguyễn ị anh Hải1, Đào ế Anh2, Philippe Vaast3, Pierre Marraccini 4, Clément Rigal 5 TÓM TẮT Giống cà phê tại Tây Bắc chủ yếu là giống cà phê chè Catimor trồng thực sinh không qua các quy trìnhchọn lọc hạt giống tiêu chuẩn nhằm hạn chế thoái hóa giống. Giống cà phê được trồng từ năm 1990 biểu hiệngià cỗi, quả nhỏ, cho năng suất thấp, kích thước nhân nhỏ dẫn tới giá trị xuất khẩu chưa cao. Năm 2018, dựán Breedcafs tiến hành thử nghiệm 04 giống cà phê chè nhập nội mới và so sánh với giống cà phê đối chứngCatimor. Các thử nghiệm được trồng ở 11 điểm khác nhau tại các khu vực trồng cà phê tập trung thuộc 2 tỉnhĐiện Biên và Sơn La dọc theo các độ cao so với mực nước biển khác nhau dao động từ 600 - 1.100 m. Kết quảsau 3 năm nghiên cứu đánh giá sinh trưởng và năng suất ban đầu (năm 3) của các giống mới, cho thấy, cácgiống H1 và Starmaya và Marsellesa có tiềm năng sinh trưởng khỏe và tốt vượt trội hơn so với giống đối chứngvề chiều cao, đường kính gốc và đặc biệt về chiều dài cành ở cả 11 điểm khảo nghiệm. Năng suất quả tươi vụthu hoạch đầu tiên trung bình tại tất cả các điểm của các giống chưa có sự khác biệt rõ rệt có ý nghĩa thốngkê, mặc dù năng suất quả tươi trung bình của các giống ở tất cả các điểm cho thấy giống Marsellesa, Starmaya,và H1 lần lượt tăng từ 125 - 150% so với giống đối chứng Catimor. Mặc dù năng suất trung bình vượt trội lớnnhưng chưa thể hiện rõ rệt trong thống kê do mức độ chênh lệch về năng suất giữa các điểm thử nghiệm lớnvà ở một số điểm năng suất chưa có chênh lệch lớn giữa các giống. Đặc biệt tỷ lệ lép nổi của các giống mới đềuthấp hơn 50% so với giống đối chứng Catimor. Từ khoá: Cà phê chè, giống nhập nội, Tây BắcI. ĐẶT VẤN ĐỀ nước là Brazil, Việt Nam and Colombia có tổng sản Cà phê chè là loài có giá trị kinh tế nhất trong số lượng cà phê đạt hơn ½ tổng sản lượng cà phê thếcác loài cây cà phê. Trên toàn thế giới có tới khoảng giới (Roldán-Pérez et al., 2009).12,5 triệu trang trại cà phê và mang lại giá trị xuất Ở Việt Nam, cà phê chè được trồng phổ biến vàkhẩu khoảng 20 tỷ đô cho những nước đang phát nhiều nhất ở vùng Tây Bắc với diện tích 21.000 hatriển như Brazil, Việt Nam, Lào, và Indonesia năm 2020, tuy nhiên tới 90% diện tích cà phê tại(Alexander et al., 2021). Trong đó cà phê chè chiếm đây đang sử dụng giống Catimor. Đây là 1 trongtới 60% và 40% là cà phê vối. Trên thị trường, cà những nguyên nhân làm hạn chế về chất lượng càphê chè được đánh giá cao hơn cà phê vối vì có phê chè trên thị trường trong nước và xuất khẩuhương vị thơm ngon và chứa ít hàm lượng ca ein của Việt Nam. ực tế cho thấy nhu cầu cà phê chèhơn. Cà phê chè thường được trồng ở những vùng chất lượng cao cho các thị trường cà phê đặc sảncó độ cao trên 1.000 m so với mực nước biển và đặc nội địa và xuất khẩu đang được chú ý. Tại Tây Bắc,trưng với hương vị thơm ngon, chất lượng tốt hơn, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp xuấtcho giá thành cao hơn và chiếm khoảng 65% tổng khẩu cà phê, người nông dân đã và đang đánh giásản lượng cà phê (Roldán-Pérez et al., 2009). cao tầm quan trọng của việc cải tiến và đa dạng Việt Nam bắt đầu mở rộng diện tích cà phê từ nguồn giống cà phê cho chất lượng tốt tại vùngnhững năm 1990s và đến năm 2020 Việt Nam đã là nhằm đáp ứng xu thế của thị trường và phát triểnnước đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu cà phê thương hiệu cà phê chè Tây Bắc nói riêng và cà phêchỉ sau Brazil (ResourceTrade, 2020). Trong đó 3 chè Việt Nam nói chung. Mặc dù Bộ Nông nghiệp Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam; 3 CIRAD UMR Eco & Sols CIRAD UMR DIADE; CIRAD UMR ABSys* Tác giả liên hệ, e-mail: quynhchanghvu@gmail.com72 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 08(141)/2022& Phát triển nông thôn và chính quyền địa phương Tây Bắc Việt Nam từ năm 2018 tại 2 tỉnh Điện Biênđã có nhiều văn bản chỉ đạo việc tái canh cà phê và Sơn La. Nhằm giới thiệu và đánh giá các gi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kết quả ban đầu khảo nghiệm một số giống cà phê chè lai nhập nội tại Tây BắcTạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 08(141)/2022KẾT QUẢ BAN ĐẦU KHẢO NGHIỆM MỘT SỐ GIỐNG CÀ PHÊ CHÈ LAI NHẬP NỘI TẠI TÂY BẮC Nguyễn ị Quỳnh Chang1*, Nguyễn ị Vân1, uan Sarzynski 4, Nguyễn Quang Trung1, Nguyễn Phi Hùng1, Hoàng Xuân ảo1, Lừ ị Yến1, Lưu Ngọc Quyến1, Nguyễn ị anh Hải1, Đào ế Anh2, Philippe Vaast3, Pierre Marraccini 4, Clément Rigal 5 TÓM TẮT Giống cà phê tại Tây Bắc chủ yếu là giống cà phê chè Catimor trồng thực sinh không qua các quy trìnhchọn lọc hạt giống tiêu chuẩn nhằm hạn chế thoái hóa giống. Giống cà phê được trồng từ năm 1990 biểu hiệngià cỗi, quả nhỏ, cho năng suất thấp, kích thước nhân nhỏ dẫn tới giá trị xuất khẩu chưa cao. Năm 2018, dựán Breedcafs tiến hành thử nghiệm 04 giống cà phê chè nhập nội mới và so sánh với giống cà phê đối chứngCatimor. Các thử nghiệm được trồng ở 11 điểm khác nhau tại các khu vực trồng cà phê tập trung thuộc 2 tỉnhĐiện Biên và Sơn La dọc theo các độ cao so với mực nước biển khác nhau dao động từ 600 - 1.100 m. Kết quảsau 3 năm nghiên cứu đánh giá sinh trưởng và năng suất ban đầu (năm 3) của các giống mới, cho thấy, cácgiống H1 và Starmaya và Marsellesa có tiềm năng sinh trưởng khỏe và tốt vượt trội hơn so với giống đối chứngvề chiều cao, đường kính gốc và đặc biệt về chiều dài cành ở cả 11 điểm khảo nghiệm. Năng suất quả tươi vụthu hoạch đầu tiên trung bình tại tất cả các điểm của các giống chưa có sự khác biệt rõ rệt có ý nghĩa thốngkê, mặc dù năng suất quả tươi trung bình của các giống ở tất cả các điểm cho thấy giống Marsellesa, Starmaya,và H1 lần lượt tăng từ 125 - 150% so với giống đối chứng Catimor. Mặc dù năng suất trung bình vượt trội lớnnhưng chưa thể hiện rõ rệt trong thống kê do mức độ chênh lệch về năng suất giữa các điểm thử nghiệm lớnvà ở một số điểm năng suất chưa có chênh lệch lớn giữa các giống. Đặc biệt tỷ lệ lép nổi của các giống mới đềuthấp hơn 50% so với giống đối chứng Catimor. Từ khoá: Cà phê chè, giống nhập nội, Tây BắcI. ĐẶT VẤN ĐỀ nước là Brazil, Việt Nam and Colombia có tổng sản Cà phê chè là loài có giá trị kinh tế nhất trong số lượng cà phê đạt hơn ½ tổng sản lượng cà phê thếcác loài cây cà phê. Trên toàn thế giới có tới khoảng giới (Roldán-Pérez et al., 2009).12,5 triệu trang trại cà phê và mang lại giá trị xuất Ở Việt Nam, cà phê chè được trồng phổ biến vàkhẩu khoảng 20 tỷ đô cho những nước đang phát nhiều nhất ở vùng Tây Bắc với diện tích 21.000 hatriển như Brazil, Việt Nam, Lào, và Indonesia năm 2020, tuy nhiên tới 90% diện tích cà phê tại(Alexander et al., 2021). Trong đó cà phê chè chiếm đây đang sử dụng giống Catimor. Đây là 1 trongtới 60% và 40% là cà phê vối. Trên thị trường, cà những nguyên nhân làm hạn chế về chất lượng càphê chè được đánh giá cao hơn cà phê vối vì có phê chè trên thị trường trong nước và xuất khẩuhương vị thơm ngon và chứa ít hàm lượng ca ein của Việt Nam. ực tế cho thấy nhu cầu cà phê chèhơn. Cà phê chè thường được trồng ở những vùng chất lượng cao cho các thị trường cà phê đặc sảncó độ cao trên 1.000 m so với mực nước biển và đặc nội địa và xuất khẩu đang được chú ý. Tại Tây Bắc,trưng với hương vị thơm ngon, chất lượng tốt hơn, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp xuấtcho giá thành cao hơn và chiếm khoảng 65% tổng khẩu cà phê, người nông dân đã và đang đánh giásản lượng cà phê (Roldán-Pérez et al., 2009). cao tầm quan trọng của việc cải tiến và đa dạng Việt Nam bắt đầu mở rộng diện tích cà phê từ nguồn giống cà phê cho chất lượng tốt tại vùngnhững năm 1990s và đến năm 2020 Việt Nam đã là nhằm đáp ứng xu thế của thị trường và phát triểnnước đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu cà phê thương hiệu cà phê chè Tây Bắc nói riêng và cà phêchỉ sau Brazil (ResourceTrade, 2020). Trong đó 3 chè Việt Nam nói chung. Mặc dù Bộ Nông nghiệp Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam; 3 CIRAD UMR Eco & Sols CIRAD UMR DIADE; CIRAD UMR ABSys* Tác giả liên hệ, e-mail: quynhchanghvu@gmail.com72 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 08(141)/2022& Phát triển nông thôn và chính quyền địa phương Tây Bắc Việt Nam từ năm 2018 tại 2 tỉnh Điện Biênđã có nhiều văn bản chỉ đạo việc tái canh cà phê và Sơn La. Nhằm giới thiệu và đánh giá các gi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Khoa học nông nghiệp Cà phê chè Cà phê chè Tây Bắc Giống cà phê chè lai nhập nội Hệ thống nông lâm kết hợpGợi ý tài liệu liên quan:
-
7 trang 189 0 0
-
8 trang 169 0 0
-
Nguồn lợi rong biển quần đảo Nam Du, Kiên Giang
14 trang 157 0 0 -
Phân lập, tuyển chọn vi khuẩn lactic và ứng dụng trong lên men nem chua chay từ cùi bưởi Năm Roi
9 trang 108 0 0 -
Tổng quan về một số vấn đề lý luận và thực tiễn về sản xuất lúa gạo theo tiêu chuẩn chứng nhận
12 trang 75 0 0 -
11 trang 59 0 0
-
6 trang 57 0 0
-
Chăn nuôi gà công nghiệp - lịch sử phát triển, một số thành tựu và thách thức trong kỷ nguyên mới
12 trang 55 0 0 -
8 trang 53 1 0
-
11 trang 52 0 0