Nội dung bài viết đề cập giống mít na Ba Vì là một giống đặc sản nổi tiếng của Hà Nội không chỉ ở độ Brix cao mà còn bởi sự ra hoa, quả rải rác, có thể cung cấp sản phẩm cho thị trường ở mọi thời điểm trong năm. Đây là một lợi thế cần được nghiên cứu, khai thác phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng hiện nay ở Hà Nội cũng như các vùng phụ cận. Tuy nhiên giống mít Na Ba Vì hiện tại không phát triển do thiếu quy trình canh tác, nhiễm sâu bệnh và hiệu quả canh tác thấp. Trên cơ sở đó, Hội Giống cây trồng Việt Nam thông qua dự án QSEAP đã phối hợp với các nhà nông học thuộc Trung tâm Tài nguyên thực vật tiến hành nghiên cứu kỹ thuật canh tác giống mít Na tại huyện Ba Vì, Hà Nội trong giai đoạn 2013-2015.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kết quả nghiên cứu kỹ thuật canh tác giống mít na tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT CANH TÁC GIỐNG MÍT NA TẠI HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Lê Khả Tường, Nguyễn Hữu Hải, Vũ Văn Tùng, Nguyễn Khắc Quỳnh Trung tâm Tài nguyên Thực vật TÓM TẮT Giống mít Na Ba Vì là một giống đặc sản nổi tiếng của Hà Nội không chỉ ở độ Brix cao mà còn bởi sự ra hoa, quả rải rác, có thể cung cấp sản phẩm cho thị trường ở mọi thời điểm trong năm. Đây là một lợi thế cần được nghiên cứu, khai thác phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng hiện nay ở Hà Nội cũng như các vùng phụ cận. Tuy nhiên giống mít Na Ba Vì hiện tại không phát triển do thiếu quy trình canh tác, nhiễm sâu bệnh và hiệu quả canh tác thấp. Trên cơ sở đó, Hội Giống cây trồng Việt Nam thông qua dự án QSEAP đã phối hợp với các nhà nông học thuộc Trung tâm Tài nguyên thực vật tiến hành nghiên cứu kỹ thuật canh tác giống mít Na tại huyện Ba Vì, Hà Nội trong giai đoạn 2013-2015. Kết quả nghiên cứu đã xác định liều lượng phân bón thích hợp cho giống mít na gồm 60 kg phân chuồng + 1,3 kg urê + 1,3 kg supe lân + 1,9 kg KCl/gốc để đạt năng suất cao nhất với 271,99 kg/cây, tăng 36,5% so với đối chứng; liều lượng phân bón khác nhau không làm ảnh hưởng đến chất lượng quả mít. Phun phân bón lá Komix làm tăng năng suất một cách có ý nghĩa nhưng không làm thay đổi chất lượng quả mít na. Phun chất điều tiết sinh trưởng Flower 94 có hiệu lực cao nhất với năng suất 44,98 tấn/ha, tăng trên 10% so với không phun. Áp dụng chất điều tiết sinh trưởng Flower 95 và Gibberellin đã làm tăng tỷ lệ sử dụng trên giống mít na so với không áp dụng. Từ khóa: Ba Vì, canh tác, chất lượng, giống mít na, năng suất I. ĐẶT VẤN ĐỀ Cây mít (Artocarpus heterophyllus) thuộc họ dâu tằm (Moraceae), có nguồn gốc ở Nam và Đông Nam Á là một trong những cây ăn quả phổ biến ở vùng nhiệt đới châu Á. Thành phần dinh dưỡng của mít có sự khác biệt đáng kể giữa các giống và các vùng. Ở Việt Nam, 100 g thịt múi mít cho năng lượng trung bình 48kcal, nước 85,4g, protein 0,6g, gluxit 11,4g, canxi 21mg, photpho 28mg, sắt 0,40mg, betacaroten 180mg và vitamin C 5mg. Hạt mít cũng được đánh giá là có giá trị dinh dưỡng cao với 70% tinh bột, 5,2% protein, 0,62% lipid và 1,4% chất khoáng; có thể được dùng làm lương thực thay ngũ cốc, chống đói trong những ngày giáp hạt. Ngoài ra, thân cây mít còn được dùng như một loại gỗ quý trong xây dựng cũng như trong việc cung cấp nguyên liệu cho các ngành mỹ nghệ hiện nay. Giống mít na Ba Vì là đặc sản nổi tiếng của Hà Nội không chỉ ở độ Brix cao, múi dài, thịt múi dày, hạt bé, màu múi hấp dẫn mà còn bởi đặc tính ra hoa, quả rải rác trong năm, có thể cung cấp quả cho thị trường ở mọi thời điểm trong năm. Đặc điểm này chính là một lợi thế của giống mít na cần được nghiên cứu phát triển trong sản xuất. Theo định hướng này, Hội Giống cây trồng Việt Nam trên cơ sở của Dự án QSEAP - Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tiến hành nghiên 780 cứu, xây dựng biện pháp canh tác góp phần nâng cao năng suất và chất lượng giống mít na tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2013-2015. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu nghiên cứu Vật liệu chính gồm các cá thể trong vườn giống mít na đang được bảo tồn, lưu giữ tại xã Sơn Đà và Phú Sơn, huyện Ba Vì, Hà Nội. Các vật liệu khác bao gồm: Đạm Urê (46% N), lân Lâm Thao (16% P2O5), Kali clorua (60% K2O), phân chuồng hoai mục, phân bón lá Grow, Yogen, Komix, Thiên Nông; Chất điều tiết sinh trưởng Nitrate kali nồng độ 1%, Flower 94, Flower 95, Gibberellin nồng độ 5-10 ppm. Thuốc BVTV Sherpa 25EC 15%, Regent 800 WG 15%, Booc đô 1%, Kocide 53,8DF. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Xác định công thức bón phân thích hợp Thí nghiệm gồm 4 công thức, 3 lần nhắc lại, mỗi lần 3 cây được bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ. Nội dung chi tiết các công thức được thiết kế như sau: (1) CT1: 40 kg PC + 1,1 kg urê + 1,1 kg supe lân + 1,6 kg KCl; (2) CT2: 50 kg PC + 1,1 kg urê + 1,2 kg supe lân + 1,6 kg KCl; (3) CT3: 60 kg PC + 1,3 kg urê + Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 1,3 kg supe lân + 1,9 kg KCl, (4) CT4-Đ/C: 30 kg PC + 0,9 kg urê + 0,9 kg supe lân + 1,3 kg KCl. Các cây trong thí nghiệm được chọn từ các vườn hộ trồng sẵn độ tuổi từ 12 -15 năm. Sau khi thu hoạch quả vụ trước bón 100% phân chuồng + ½ N + ½ lân + ¼ Kali + vôi; trước ra hoa vụ chính 15 - 20 ngày bón ½ P2O5 +¼ K2O; giai đoạn nuôi quả vụ chính bón ¼ N + ¼ K2O; giai đoạn nuôi quả vụ phụ bón ¼ N + ¼ K2O. Đào rãnh quanh tán gốc (rộng, sâu 25 – 30 cm), trộn và rải đều phân quanh rãnh, lấp đất kín. Phân vô cơ vãi quanh tán, dùng cào lấp phân, nếu khô hạn sau khi bón phân thì tưới nước hoặc hoà phân vào nước để tưới. 2.2.2. Nghiên cứu phân bón lá cải tiến năng suất Thí nghiệm gồm 5 công thức được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh trên vườn trồng sẵn của nông dân có độ tuổi từ 12 15 năm. Nội dung chi tiết các công thức thí nghiệm phun phân bón lá được thiết kế như sau: (1-Đ/C) phun nước lã, (2) Phun Grow, (3) phun Yogen, (4) Phun Komix và (5) Phun Thiên Nông. Tất cả các công thức được phun 3 đợt như sau: (1) Trước khi xuất hiện hoa 10 ngày, (2) sau thời gian hoa nở rộ 10 ngày và (3) sau đợt hái 10 ngày. 2.2.3. Nghiên cứu chất điều tiết làm tăng khả năng ra hoa, quả Thí nghiệm gồm 5 công thức, 3 lần nhắc, mỗi lần 3 cây có độ tuổi 12-15 năm trên vườn trồng sẵn của nông dân, thiết kế theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh. Nội dung chi tiết các công thức thí nghiệm gồm: (1) Không sử dụng chất điều tiết sinh trưởng; (2) Phun Nitrate kali, nồng độ 1% một lần trước khi ra hoa 10-15 ngày vào lúc sáng sớm hay chiều mát, (3) Phun Flower 94 hai lần sau đậu trái 10 ngày vào lúc sáng sớm hay chiều mát, (4) Phun Flower 95 hai lần sau đậu trái cách nhau 10 ngày 1 lần và (5) Phun Gibberellin nồng độ 5-10 ppm hai lần sau đậu trái 10 ngày và cách nhau 20 ngày 1 lần. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Xác định công thức bón phân thích hợp cho giống mít na 3.1.1. Ngh ...