Danh mục

Khái niệm từ vựng học

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 136.68 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Từ vựng học (lexicology) là một bộ môn Ngôn ngữ học nghiên cứu từ vựng của ngôn ngữ. Vậy, đối tượng nghiên cứu của từ vựng học là từ vựng. Từ vựng được hiểu là tập hợp tất cả các từ và đơn vị tương đương với từ trong ngôn ngữ. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu để hiểu rõ hơn về từ vựng học.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khái niệm từ vựng học Khái niệm từ vựng học 1. Nói cho đơn giản thì từ vựng học (lexicology) l à một bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu từ vựng của ngôn ngữ. Vậy, đối tượng nghiên cứu của từ vựng học là từ vựng. Từ vựng được hiểu là tập hợp tất cả các từ và đơn vị tương đương với từ trong ngôn ngữ. Đơn vị tương đương với từ là những cụm từ cố định, cái mà người ta vẫn hay gọi là các thành ngữ, quán ngữ. Ví dụ: ngã vào võng đào, múa tay trong bị, con gái rượu, tóc rễ tre, của đáng tội,… trong tiếng Việt; hoặc wolf in sheeps clothing (sói đội lốt cừu), like a bat out of hell (ba chân bốn cẳng)… trong tiếng Anh. 2. Nhiệm vụ và mục đích cơ bản của từ vựng học l à phải giải đáp được những vấn đề chính như: a. Từ là gì? Nó được tạo nên bằng cái gì và như thế nào? b. Nghĩa của từ là gì? Muốn phân tích cho ra được cái nghĩa đó thì phải làm như thế nào? c. Thực chất các kiểu tập hợp từ vựng nh ư: đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa, các trường từ vựng,… là gì và nghiên c ứu nó như thế nào? d. Phân chia các lớp từ vựng bằng cách nào? Và những con đường phát trỉển của từ vựng ra sao?… Trong thực tế, nghiên cứu từ vựng có thể xuất phát từ những bình diện khác nhau và dùng những phương pháp khác nhau. Nếu khảo sát những vấn đề chung cho m ọi (hoặc nhiều) từ vựng của nhiều ngôn ngữ, là ta nhìn ở bình diện của từ vựng học đại c ương. Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến những vấn đề của một từ vựng trong một ngôn ngữ nào đó, là ta đứng trên bình diện nghiên cứu cụ thể. Ví dụ: từ vựng học tiếng Việt, từ vựng học tiếng Hán, từ vựng học tiếng Anh,… Khi nghiên c ứu một từ vựng đương đại (hiện đại) nào đó, người ta phân tích, miêu tả theo cách nhìn đồng đại, và thường gọi tên như: Từ vựng học (tiếng Việt/tiếng Nga/…) hiện đại. Ngược lại, nghiên cứu từ vựng với cách nhìn lịch đại sẽ xây dựng nên bộ môn từ vựng học lịch sử, khảo sát sự diễn biến của từ vựng trong quá trình phát triển-lịch sử của nó. Ở đây, ph ương pháp so sánh lịch sử, và các nhân tố ngoài ngôn ngữ, sẽ rất được chú ý khai thác, sử dụng. 3. Như đã nói từ đầu, các bộ môn từ vựng học, ngữ âm học, v à ngữ pháp học là những bộ môn tương đối độc lập. Tuy vậy, chúng không tách biệt nhau hoàn toàn mà vẫn có liên quan đến nhau. Ngữ pháp học và từ vựng học đều có đối tượng nghiên cứu là từ; đặc biệt, vấn đề cấu tạo từ như là một phần giao giữa hai bộ môn này, khiến cho cả hai đều phải cùng thảo luận. Đối t ượng nghiên cứu của ngữ âm học thì riêng hẳn: chỉ chú ý đến mặt âm thanh của từ. Thế nh ưng, ba bộ môn này nhiều khi đã phải sử dụng kết quả nghiên cứu của nhau. Việc phân tích nghĩa của từ bằng phương pháp sử dụng ngữ cảnh, việc phâ n tích ranh giới từ,… chẳng hạn, không thể bỏ qua việc dựa vào các dấu hiệu và quy tắc ngữ pháp, ngữ âm như: nguyên tắc kết hợp từ, chức năng v à trật tự ngữ pháp, hiện t ượng chuyển đổi từ loại, các hiện t ượng trọng âm (nhất là trọng âm lực – dynamic accent), hiện tượng mất tính thanh của âm cuối… Mặt khác, nghi ên cứu các biến thể, biến dạng của từ, nhất là nghiên cứu từ vựng lịch sử và từ nguyên, chắc chắn phải sử dụng những hiểu biết về ngữ âm học, âm vị học. Ng ược lại, không hiếm những hiểu biết về ngữ pháp và ngữ âm (nhất là ngữ âm lịch sử) chỉ có thể giải quyết qua những phân tích một cách từ vựng học nh ư phân tích về từ cổ, từ lịch sử, từ ngữ địa phương… Ngoài ra, các bộ môn khác, kể cả trong v à ngoài ngôn ngữ học như: phong cách học, từ điển học, lịc h sử văn hoá văn minh,… cũng đều ít nhiều li ên quan đến từ vựng học. 4. Có những bộ môn hình thành trên cơ sở nghiên cứu những mặt, những bộ phận khác nhau của từ vựng. Nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt về cách hiểu thì có thể xem như chúng được tách ra t ừ từ vựng học vậy. 4.a. Trước hết là từ nguyên học. Bộ môn này có mục đích tìm hiểu, giải thích và xác định những hình thức, những ý nghĩa có tính chất cội nguồn của từ. Nó tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng cách nhìn lịch đại là chủ yếu; và nhiều khi còn phải vận dụng cả cứ liệu của những ngành khoa học lân cận như: sử học, dân tộc học, văn hoá và chính trị,… Một ví dụ: Miền Trung Việt Nam có con sông gọi là sông Mã. Trong dân gian, người ta giải thích rằng gọi nó là sông Mã vì nó chảy xiết, nhanh và mạnh như ngựa phi, và sông Mã nghĩa là sông Ngựa. Cách giải thích cảm tính, chủ quan, không chứng cứ nh ư vậy, gọi là từ nguyên học dân gian. Từ nguyên học khoa học phải tìm những chứng cứ khoa học để giải thích. Thật ra, sông Mã là lối nói trại đi của cái tên đích thực: sông Mạ, được ghi bằng một chứ Hán, đọc là mã (ngựa). MẠ trong tiếng Việt x ưa (nay còn lưu lại trong phương ngữ miền Trung) vốn có nghĩa là MẸ. Những con sông lớn ở vùng Đông Nam Á thường được gọi bằng cái tên có nghĩa MẸ (với ngụ ý là lớn, lớn nhất) như vậy. Chẳng hạn: Tiếng Việt có sông CÁI, rào CÁI = sông mẹ Tiếng Thái Lan có Menam = sông mẹ Tiếng Môn cổ có Meklong = sông mẹ (Mô hình tên gọi ...

Tài liệu được xem nhiều: