Khám thính lực chung cho trẻ
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 100.84 KB
Lượt xem: 4
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Ðôi lúc trẻ nghe thấy, nhưng không nghe. Nghiêm trọng hơn, đôi khi trẻ cố nghe nhưng không nghe thấy. Vấn đề nghe ở trẻ thường không được khẳng định cho tới khi trẻ được 2 tới 3 tuổi. Đến tuổi này những khó khăn trong nói và hiểu của trẻ thường rõ rệt hơn. Và một đứa trẻ có vấn đề về nghe không được phát hiện có thể giảm sự phát triển ngôn ngữ. Ðiều này có thể dẫn tới những vấn đề về học tập. Kiểm tra cho tất cả trẻ. Do các kích thích thính...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khám thính lực chung cho trẻ Khám thính lực chung cho trẻ Ðôi lúc trẻ nghe thấy, nhưng không nghe. Nghiêm trọng hơn, đôi khitrẻ cố nghe nhưng không nghe thấy. Vấn đề nghe ở trẻ thường không được khẳng định cho tới khi trẻ được2 tới 3 tuổi. Đến tuổi này những khó khăn trong nói và hiểu của trẻ thườngrõ rệt hơn. Và một đứa trẻ có vấn đề về nghe không được phát hiện có thểgiảm sự phát triển ngôn ngữ. Ðiều này có thể dẫn tới những vấn đề về họctập. Kiểm tra cho tất cả trẻ. Do các kích thích thính giác trong 6 tháng tuổi đầu là cốt yếu để pháttriển kỹ năng ngôn ngữ và lời nói, nên việc phát hiện và giúp đỡ trẻ từ sớmlà rất quan trọng. Cho tới gần đây, việc kiểm tra mới chỉ được tiến hành cho những trẻcó nguy cơ cao. Bao gồm trẻ có cân nặng sơ sinh thấp, gia đình có tiền sửđiếc, đẻ non hoặc trẻ cần phải hồi sức tích cực. Vấn đề là khoảng 1/2 số trẻmà kết cục sẽ bị điếc vĩnh viễn lại không nằm trong những mục nguy cơ caonày. Vì vậy sự suy giảm thính giác của chúng đôi khi không đ ược phát hiệncho tới mãi khi trẻ đã lớn và có vấn đề về ngôn ngữ. Cuối những năm 1990, sự phát triển của những test sàng lọc thínhgiác nhanh với chi phí thấp dành cho trẻ đã làm cho việc thiết lập cácchương trình sàng lọc điếc cho tất cả những trẻ sinh tại bệnh viện trở nênkhả thi. Hai loại test thường được sử dụng là: xét nghiệm phát âm tai (OAE)và xét nghiệm đáp ứng thân não thính giác (ABR). Thông thường, cácchương trình sàng lọc sử dụng phương pháp sàng lọc 2 giai đoạn: OAE nhắclại 2 lần, OAE sau ABR hoặc ABR nhắc lại 2 lần. Xét nghiệm OAE dễ thực hiện hơn ABR và hay được dùng làm thủthuật sàng lọc ban đầu hơn. Nó xác định bộ phận nào của tai trẻ đáp ứng phùhợp với âm thanh. Xét nghiệm ABR xác định mức độ đáp ứng của não và thân não củatrẻ với âm thanh. Nó mất nhiều thời gian để thực hiện hơn xét nghiệm OAE. Dưới đây là một số thông tin về thiếu hụt thính giác và khám sàng lọcthính giác cho toàn thể trẻ sơ sinh. Mỗi năm có xấp xỉ 5.000 trẻ nhỏ sinh ra ở Mỹ bị điếc cả hai tai. Sựthiếu hụt thính giác này có thể ảnh hưởng tới mỗi cá nhân trong suốt cuộcđời. Sự chậm phát triển trong học nói và ngôn ngữ có thể dẫn tới kỹ năngđọc kém, kết quả kém ở trường và giảm cơ hội việc làm. Lợi ích lớn nhất của sàng lọc thính giác cho toàn thể trẻ sơ sinh(UNHS) là ở chỗ những trường hợp giảm thính giác đáng kể mà ban đầu cóthể không được phát hiện được chẩn đoán và điều trị sớm. Một nghiên cứucho thấy với UNHS, 57% số trẻ bị giảm thính giác nặng hoặc vừa phải đượcchẩn đoán đến khi được 10 tháng tuổi. Trong số những trẻ không được làmUNHS, chỉ 14% được chẩn đoán khi được 10 tháng tuổi. Nếu điếc vĩnh viễn được xác nhận, có nhiều loại máy trợ thính cho trẻnhỏ tới 4 tuần tuổi. Các liệu pháp khác được sử dụng để kích thích sự pháttriển ngôn ngữ cũng có thể được sử dụng ở lứa tuổi nhỏ. Những mặt trái tiềm ẩn của khám sàng lọc thính giác cho toàn thể trẻnhỏ gồm: Cảnh báo sai. Một test sàng lọc thính giác tốt có mục đích xác địnhcả thính giác tới hạn, do ranh giới mong mạnh từ giữa nghe được ít và điếchoàn toàn, nên báo báo động giả chắc chắn sẽ xảy ra, nghĩa là trẻ tạm thời bịnghi là bị điếc cho đến khi xét nghiệm kỹ hơn khẳng định điều ngược lại.Những kết quả này được gọi là kết quả xét nghiệm dương tính giả. VớiUNHS, phần lớn trẻ nhỏ thất bại trong khám sàng lọc thính giác đều khôngbị điếc và sau đó sẽ vượt qua xét nghiệm thính giác này khi tiến hành lại. Khả năng việc chăm sóc bị thay đổi. Cha mẹ có thể bắt đầu việcđiều trị chuyên khoa không thích hợp cho đứa con ban đầu bị nghi là điếcnhưng sau đó lại thấy là có sức nghe bình thường. Ðưa ra quyết định vội vàng. Việc xác định bị điếc sớm đòi hỏi chamẹ - những người nắm quyền bảo vệ trẻ - đưa ra quyết định về các kỹ thuậtvà biện pháp điều trị mà họ chưa được chuẩn bị trước, như liệu có cấy ốc taikhông. Bằng chứng không thuyết phục. Mặc dù việc xác định và can thiệpsớm có thể cải thiện chất lượng sống cho bạn và trẻ trong năm đầu đời, songchưa có bằng chứng thuyết phục để xác định liệu việc điều trị sớm nhờ khámsàng lọc có dẫn tới cải thiện đáng kể sự phát triển ngôn ngữ và lời nóikhông. Theo các tác giả một nghiên cứu về UNHS đăng trên tạp chí Journalof American Mediccal Association ngày 24/31 tháng 10 năm 2001, sự thiếubằng chứng này không có nghĩa là UNHS là có hại hoặc vô ích. Ðúng hơn,nó chỉ đơn giản cho thấy rằng chưa có đủ bằng chứng để đánh giá lợi ích.UNHS cần được tiếp tục. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khám thính lực chung cho trẻ Khám thính lực chung cho trẻ Ðôi lúc trẻ nghe thấy, nhưng không nghe. Nghiêm trọng hơn, đôi khitrẻ cố nghe nhưng không nghe thấy. Vấn đề nghe ở trẻ thường không được khẳng định cho tới khi trẻ được2 tới 3 tuổi. Đến tuổi này những khó khăn trong nói và hiểu của trẻ thườngrõ rệt hơn. Và một đứa trẻ có vấn đề về nghe không được phát hiện có thểgiảm sự phát triển ngôn ngữ. Ðiều này có thể dẫn tới những vấn đề về họctập. Kiểm tra cho tất cả trẻ. Do các kích thích thính giác trong 6 tháng tuổi đầu là cốt yếu để pháttriển kỹ năng ngôn ngữ và lời nói, nên việc phát hiện và giúp đỡ trẻ từ sớmlà rất quan trọng. Cho tới gần đây, việc kiểm tra mới chỉ được tiến hành cho những trẻcó nguy cơ cao. Bao gồm trẻ có cân nặng sơ sinh thấp, gia đình có tiền sửđiếc, đẻ non hoặc trẻ cần phải hồi sức tích cực. Vấn đề là khoảng 1/2 số trẻmà kết cục sẽ bị điếc vĩnh viễn lại không nằm trong những mục nguy cơ caonày. Vì vậy sự suy giảm thính giác của chúng đôi khi không đ ược phát hiệncho tới mãi khi trẻ đã lớn và có vấn đề về ngôn ngữ. Cuối những năm 1990, sự phát triển của những test sàng lọc thínhgiác nhanh với chi phí thấp dành cho trẻ đã làm cho việc thiết lập cácchương trình sàng lọc điếc cho tất cả những trẻ sinh tại bệnh viện trở nênkhả thi. Hai loại test thường được sử dụng là: xét nghiệm phát âm tai (OAE)và xét nghiệm đáp ứng thân não thính giác (ABR). Thông thường, cácchương trình sàng lọc sử dụng phương pháp sàng lọc 2 giai đoạn: OAE nhắclại 2 lần, OAE sau ABR hoặc ABR nhắc lại 2 lần. Xét nghiệm OAE dễ thực hiện hơn ABR và hay được dùng làm thủthuật sàng lọc ban đầu hơn. Nó xác định bộ phận nào của tai trẻ đáp ứng phùhợp với âm thanh. Xét nghiệm ABR xác định mức độ đáp ứng của não và thân não củatrẻ với âm thanh. Nó mất nhiều thời gian để thực hiện hơn xét nghiệm OAE. Dưới đây là một số thông tin về thiếu hụt thính giác và khám sàng lọcthính giác cho toàn thể trẻ sơ sinh. Mỗi năm có xấp xỉ 5.000 trẻ nhỏ sinh ra ở Mỹ bị điếc cả hai tai. Sựthiếu hụt thính giác này có thể ảnh hưởng tới mỗi cá nhân trong suốt cuộcđời. Sự chậm phát triển trong học nói và ngôn ngữ có thể dẫn tới kỹ năngđọc kém, kết quả kém ở trường và giảm cơ hội việc làm. Lợi ích lớn nhất của sàng lọc thính giác cho toàn thể trẻ sơ sinh(UNHS) là ở chỗ những trường hợp giảm thính giác đáng kể mà ban đầu cóthể không được phát hiện được chẩn đoán và điều trị sớm. Một nghiên cứucho thấy với UNHS, 57% số trẻ bị giảm thính giác nặng hoặc vừa phải đượcchẩn đoán đến khi được 10 tháng tuổi. Trong số những trẻ không được làmUNHS, chỉ 14% được chẩn đoán khi được 10 tháng tuổi. Nếu điếc vĩnh viễn được xác nhận, có nhiều loại máy trợ thính cho trẻnhỏ tới 4 tuần tuổi. Các liệu pháp khác được sử dụng để kích thích sự pháttriển ngôn ngữ cũng có thể được sử dụng ở lứa tuổi nhỏ. Những mặt trái tiềm ẩn của khám sàng lọc thính giác cho toàn thể trẻnhỏ gồm: Cảnh báo sai. Một test sàng lọc thính giác tốt có mục đích xác địnhcả thính giác tới hạn, do ranh giới mong mạnh từ giữa nghe được ít và điếchoàn toàn, nên báo báo động giả chắc chắn sẽ xảy ra, nghĩa là trẻ tạm thời bịnghi là bị điếc cho đến khi xét nghiệm kỹ hơn khẳng định điều ngược lại.Những kết quả này được gọi là kết quả xét nghiệm dương tính giả. VớiUNHS, phần lớn trẻ nhỏ thất bại trong khám sàng lọc thính giác đều khôngbị điếc và sau đó sẽ vượt qua xét nghiệm thính giác này khi tiến hành lại. Khả năng việc chăm sóc bị thay đổi. Cha mẹ có thể bắt đầu việcđiều trị chuyên khoa không thích hợp cho đứa con ban đầu bị nghi là điếcnhưng sau đó lại thấy là có sức nghe bình thường. Ðưa ra quyết định vội vàng. Việc xác định bị điếc sớm đòi hỏi chamẹ - những người nắm quyền bảo vệ trẻ - đưa ra quyết định về các kỹ thuậtvà biện pháp điều trị mà họ chưa được chuẩn bị trước, như liệu có cấy ốc taikhông. Bằng chứng không thuyết phục. Mặc dù việc xác định và can thiệpsớm có thể cải thiện chất lượng sống cho bạn và trẻ trong năm đầu đời, songchưa có bằng chứng thuyết phục để xác định liệu việc điều trị sớm nhờ khámsàng lọc có dẫn tới cải thiện đáng kể sự phát triển ngôn ngữ và lời nóikhông. Theo các tác giả một nghiên cứu về UNHS đăng trên tạp chí Journalof American Mediccal Association ngày 24/31 tháng 10 năm 2001, sự thiếubằng chứng này không có nghĩa là UNHS là có hại hoặc vô ích. Ðúng hơn,nó chỉ đơn giản cho thấy rằng chưa có đủ bằng chứng để đánh giá lợi ích.UNHS cần được tiếp tục. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chăm sóc trẻ em sức khoẻ trẻ em bệnh trẻ em y học bệnh nhi y học phỏ thôngGợi ý tài liệu liên quan:
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 164 0 0 -
4 trang 142 0 0
-
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 113 0 0 -
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 90 0 0 -
Giáo trình Nhi khoa y học cổ truyền: Phần 1 - NXB Y học
57 trang 73 0 0 -
Giáo trình Nhi khoa y học cổ truyền: Phần 2 - NXB Y học
32 trang 58 0 0 -
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL
22 trang 44 0 0 -
Cách nuôi dạy khả năng trí tuệ của trẻ
0 trang 43 0 0 -
Đồ chơi giúp trẻ phát triển thế nào?
3 trang 43 0 0 -
Khi nào nên tập cho bé đánh răng
3 trang 42 0 0