Danh mục

Khế chữa viêm họng, cảm, sốt nóng

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 109.38 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tên khoa học của khế là Averrhoa carambola L., thuộc họ chua me đất (Oxalidaceae). Cây gỗ cao tới 10 m. Lá kép lông chim gồm 3 đến 5 đôi lá chét. Cụm hoa ngắn, thành chùm xim ở nách lá. Hoa màu hồng hay màu tím. Quả to, tiết diện hình ngôi sao năm múi.Phân bố và sinh thái: Khế có nguồn gốc ở Malaysia, được trồng ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó được trồng khắp nước ta và do trồng trọt mà người ta tạo ra nhiều giống (khế chua, khế ngọt…).Chế biến...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khế chữa viêm họng, cảm, sốt nóng Khế chữa viêm họng, cảm, sốt nóng Tên khoa học của khế là Averrhoa carambola L., thuộc họ chua me đất(Oxalidaceae). Cây gỗ cao tới 10 m. Lá kép lông chim gồm 3 đến 5 đôi lá chét.Cụm hoa ngắn, thành chùm xim ở nách lá. Hoa màu hồng hay màu tím. Quảto, tiết diện hình ngôi sao năm múi. Phân bố và sinh thái: Khế có nguồn gốc ở Malaysia, được trồng ở các nướcnhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó được trồng khắp nước ta và do trồng trọt mà ngườita tạo ra nhiều giống (khế chua, khế ngọt…). Chế biến làm thực phẩm: Khế múi ít chua, có hàm lượng acid oxalic là 1%,khi chín là món ăn được nhiều người ưa thích. Người ta thường dùng khế ăn sốngchấm mắm, nấu canh chua với tôm tép và cá. Quả chín có thể làm mứt và làm khế dầm. Chọn khế ngọt, chín tới, còn tươi(1 kg); quả to vừa, không bị sâu hay giập, rửa sạch, pha muối loãng (5%) ngâmkhế khoảng 30 phút, vớt ra để ráo nước, bổ theo chiều dọc, tách riêng từng múi.Đổ khế vào chậu sứ hay thủy tinh, rắc đường (100 g) và muối (5 g), trộn đều, thờigian ướp khoảng 1 giờ là được. Trước khi dùng cho ớt khô (2 g) đã xay thành bột vào trộn đều, khế dầm cóvị cay ngọt dùng để ăn chơi, ăn tráng miệng. Có khi người ta còn cắt lát khế múiphơi khô, để dành vào lúc mưa bão thiếu rau nấu canh chua hoặc xào với thịt, tômtép làm món ăn. Người ta đã xác định được trong thành phần của khế múi, có các chất theog%: nước 92, protid 0,6, glucid 3,1, cellulose 2,6; và theo mg%: calcium 10,phosphor 8, sắt 0,9, caroten 160, vitamin B1 0,05, vitamin C 30. Ngoài khế múi, ở các tỉnh phía nam nước ta, nhân dân còn trồng khế dưachuột (Averrhoa bilimbi L.) cũng gốc ở Malaysia. Cây cao tới hàng chục mét. Quảhình trụ, dài 5 - 10 cm, màu lục vàng và trong suốt, khi chín rất chua (hàm lượngacid oxalic là 6%) nên ít được ăn tươi. Người ta thường bảo quản dưới dạng xi rôhoặc muối dưa, ngâm nước muối, nước mắm để ăn. Sử dụng làm thuốc: Cả người phương Đông lẫn phương Tây đều sớm biếtcông dụng y học của khế, và tên của người thầy thuốc và triết gia Ả RậpAverrhoes đã được dùng để đặt tên cho cây khế. Averrhoes (ở thế kỷ 12) đã pháthiện khế là một dược liệu tốt, dùng trộn với hồ tiêu để làm toát mồ hôi, giã nhỏ rồiđắp lên người để làm tiêu tan sự rã rời, bải hoải; còn dùng chữa bệnh ngứa, kíchthích hoạt động của mắt, chữa ho, sưng hạch tiết nước bọt, viêm họng, đau thấpkhớp, phù thũng. Nhiều bộ phận của cây: rễ, cành, lá, hoa và quả khế được sử dụng làmthuốc: - Rễ có vị chua, chát, tính bình, được dùng làm thuốc sáp tinh, chỉ huyết,chỉ thống để trị di tinh, chảy máu mũi, đau đầu mạn tính, tê đau khớp xương. - Cành lá có vị chua, chát tính mát được dùng làm thuốc khư phong lợithấp, tiêu thũng chỉ thống, để trị cảm mạo do phong nhiệt, viêm dạ dày- ruột cấptính, tiểu tiện bất lợi, sản hậu phù thũng, đòn ngã tê đau, mụn nhọt sưng lở. - Hoa có vị ngọt, tính bình được dùng làm thuốc thanh nhiệt để trị nóng,lạnh đan xen nhau. - Quả có vị chua ngọt, tính bình được dùng làm thuốc sinh tân chỉ khát, trịho do phong nhiệt, đau họng, bệnh lỵ. Khế thường được dùng trị cảm, sốt nóng, khát nước, giải độc, lợi tiểu. Chữadị ứng do tiếp xúc với sơn, dùng quả khế cắt miếng xát hay dùng lá vò xát. Lá khế(có thể thêm vỏ cây khế) nấu nước, trong uống ngoài đắp rồi tắm chữa lở sơn, mẩnngứa, mày đay. Chữa ngộ độc, dùng nước khế ép uống thật nhiều. Chữa đái khôngthông, dùng 7 quả khế chua, cắt mỗi quả lấy một miếng ở 1/3 phía gần cuống, đổvào một chén nước, sắc còn nửa chén, uống vào lúc còn nóng. Lại lấy một quả khếvà một củ tỏi cũng giã đều, đem đắp vào rốn thì đái thông. Ăn khế bị ê răng, nhai một nắm lá khế là hết. Lá khế sao thơm sắc uốngchữa sốt nóng, cảm nắng, đái ít. Với trẻ em lên sởi dùng lá khế (và vỏ cây khế) sắcuống thúc sởi mọc đều, nấu nước tắm để tiệt nọc sởi sau khi bay hết. Nếu bị hokhan, ho đàm, thì lấy mấy chùm hoa khế tẩm rượu gừng sao thơm sắc uống. TS. Võ Văn Chi, nguyên giảng viên Đại học y dược TP.HCM. ...

Tài liệu được xem nhiều: