Khí sinh học - Thành tựu và rào cản
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 144.34 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Công nghệ khí sinh học (KSH) là một công nghệ đa mục tiêu, được sử dụng để xử lý chất thải hoặc sản xuất KSH. Do vậy, đây được xem là công nghệ môi trường hoặc công nghệ năng lượng tái tạo hoặc cả hai tùy theo mục đích. Tình hình phát triển khí sinh học ở Việt Nam Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển ngành chăn nuôi nói riêng và kinh tế nói chung, công nghệ KSH đã phát triển để đáp ứng nhu cầu về môi trường và năng lượng. KSH được bắt đầu nghiên cứu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khí sinh học - Thành tựu và rào cản Khí sinh học Thành tựu và rào cảnCông nghệ khí sinh học (KSH) là một công nghệ đa mục tiêu, được sử dụng đểxử lý chất thải hoặc sản xuất KSH. Do vậy, đây được xem là công nghệ môitrường hoặc công nghệ năng lượng tái tạo hoặc cả hai tùy theo mục đích.Tình hình phát triển khí sinh học ở Việt NamỞ Việt Nam, cùng với sự phát triển ngành chăn nuôi nói riêng và kinh tế nóichung, công nghệ KSH đã phát triển để đáp ứng nhu cầu về môi trường và nănglượng. KSH được bắt đầu nghiên cứu và ứng dụng từ những năm 1960 trên cảnước. Lịch sử phát triển KSH có thể được chia thành 3 thời kỳ:Thời kỳ 1960 - 1990: Mặc dù bắt đầu được nghiên cứu ứng dụng từ những năm1960 ở cả 2 miền (Bắc, Nam) nhưng KSH không được phát triển. Sau khi đấtnước được thống nhất năm 1975, do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trongtình hình khủng hoảng năng lượng quốc tế, KSH lại được chú ý dưới góc độnăng lượng. Chương trình Nhà nước về Năng lượng mới và tái sinh đã đượctriển khai giai đoạn 1980 - 1990. Trong giai đoạn 1986 - 1990, Chương trình doBộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì với 22 đề tài, trong đó 9 đề tài thuộc về KSH.Tham gia Chương trình có các viện nghiên cứu, trường đại học và 25 Sở Khoahọc Kỹ thuật của các tỉnh.Thời kỳ 1991 - 2002: Cùng với sự phát triển của ngành chăn nuôi, KSH đượcphát triển mạnh mẽ hơn và thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức thuộc lĩnh vựcnông nghiệp. Việc ứng dụng KSH được mở rộng nhanh chóng nhờ áp dụng loạitúi ni lông rẻ tiền và dễ lắp đặt là một hợp phần của Chương trình giúp đỡ kỹthuật của Cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) và Tổ chứcNông lương Liên hợp quốc (FAO). Chương trình Mục tiêu quốc gia về cung cấpnước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn cũng ứng dụng KSH để góp phầngiải quyết vệ sinh môi trường nông thôn. Năm 2002, Bộ Nông nghiệp và Pháttriển nông thôn (NN&PTNT) đã ban hành bộ Tiêu chuẩn về KSH đầu tiên củaViệt Nam 10TCVN 492÷499 - 2002 Thiết bị KSH nhỏ.Thời kỳ từ năm 2003 đến nay: Nhiều dự án KSH trực thuộc Bộ NN&PTNTđược triển khai. Mở đầu là Dự án Chương trình KSH cho ngành chăn nuôi doChính phủ Hà Lan tài trợ được triển khai từ năm 2003, tới nay đã mở rộng tại48 tỉnh/thành phố và xây dựng được trên 120.000 công trình. Dự án An toànthực phẩm và cạnh tranh trong chăn nuôi (LIFSAP) với vốn vay của Ngân hàngThế giới (WB) thực hiện trong thời gian từ 2008 - 2013 tại 12 tỉnh/thành phố.LIFSAP cũng có hợp phần KSH với mục tiêu xây dựng 20.600 công trình. Dựán Nâng cao chất lượng và an toàn cho các sản phẩm nông nghiệp và Phát triểnKSH (QSEAP) với vốn vay của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) được triểnkhai trong thời gian 6 năm (2009 - 2015) tại 16 tỉnh/thành phố. Hợp phần KSHcó mục tiêu hỗ trợ xây dựng 40 nghìn công trình.Ngoài 3 Dự án lớn nêu trên, Chương trình Mục tiêu quốc gia về sử dụng nănglượng tiết kiệm và hiệu quả do Bộ Công Thương chủ trì cũng có nội dung hỗ trợứng dụng KSH. Hội Làm vườn Việt Nam (VACVINA) cũng phổ cập ứng dụngKSH trong việc phát triển mô hình VAC (vườn, ao, chuồng).Những thành tựu đã đạt đượcCho tới nay, KSH đã được ứng dụng tại tất cả 63 tỉnh/thành phố trong cả nước.Riêng 3 Dự án của Bộ NN&PTNT đã có 52 tỉnh tham gia. Các tỉnh/thành phốkhác tuy không tham gia 3 Dự án này nhưng có những dự án riêng của tỉnh hoặcngười dân tự xây dựng công trình.Theo Khảo sát về mức sống hộ gia đình năm 2008 (Tổng cục Thống kê), số hộchăn nuôi xử lý chất thải bằng KSH là 16,4%. Từ đó có thể ước tính số côngtrình KSH trong toàn quốc tới năm 2008 vào khoảng 1,5 triệu. Tới nay số hộchăn nuôi ứng dụng KSH khoảng 20% (1,7 triệu hộ).Từ những công trình quy mô nhỏ vài chục m3 hợp với quy mô chăn nuôi giađình đã phát triển lên những công trình quy mô vừa và lớn hàng nghìn m3 phùhợp với quy mô chăn nuôi trang trại. Từ lĩnh vực chăn nuôi, KSH đã mở rộngsang lĩnh vực công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm (rượu, bia, tinh bộtsắn, chế biến hải sản...).Hiện nay, đội ngũ những người hoạt động về KSH rất đông đảo. Bên cạnh cáctổ chức Chính phủ như: Viện nghiên cứu, Trường Đại học, các Sở NN&PTNT,KH&CN; TN&MT, Công Thương..., Hội Phụ nữ, Hội Làm vườn, Hội Nôngdân... và các công ty, cửa hàng tham gia các hoạt động như triển khai dự án, sảnxuất/hoặc cung ứng dịch vụ xây dựng và trang thiết bị. Đội ngũ thợ xây và kỹthuật viên do các dự án đào tạo đã mở rộng tới cấp huyện ở nhiều tỉnh/thànhphố trên cả nước.Trong quá trình phát triển đã có nhiều công nghệ được ứng dụng ở Việt Nam,chủ yếu là quy mô nhỏ.Ở quy mô nhỏ, loại thiết bị nắp cố định vòm cầu KT1 và KT2 được ứng dụngrộng rãi trong toàn quốc và đã được tiêu chuẩn hóa. Gần đây loại bể compozitđược sản xuất công xưởng cũng đã phát triển nhanh chóng. Một số kiểu thiết bịKSH khác như VACVINA cải tiến, KT31, EQ cũng được ứng dụng thành côngở mức độ hẹp hơn.Đối với quy mô vừa cho các trang trại chăn nuôi, các công nghệ thích hợp đượcáp dụng để xử lý chất thải chăn nuôi là bể kiểu dòng chảy ống plug-flow xâygạch, có vòm bê tông hoặc KT31 với nhiều vòm chứa khí compozit.Với quy mô lớn, loại hồ kỵ khí che phủ có suất đầu tư thấp đã được ứng dụngthành công cho nhiều trang trại và nhà máy tinh bột sắn.Bên cạnh đó, nhận thức của người dân về KSH đã nâng cao. Qua các phươngtiện thông tin đại chúng, người dân đã hiểu được những lợi ích và hoạt động củacông trình KSH. Nhiều người đã tự tìm đến các tổ chức dịch vụ và tự đầu tư xâydựng công trình.Đặc biệt, thông qua đó, nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước thuộc các lĩnh vựcmôi trường, nông nghiệp và phát triển nông thôn, năng lượng, khoa học côngnghệ có đề cập tới việc khuyến khích ứng dụng KSH. Những chính sách này đãđược cụ thể hóa với sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước trong các chương trìnhmục tiêu quốc gia và các dự án của Chính phủ. Những thành tựu đã đạt được tạođiều kiện thuận lọi cho việc mở rộng ứng dụng KSH trong thời gian tới.Những rào cản hạn chếKhả năng xây dựng các công trình KSH của người ứng ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khí sinh học - Thành tựu và rào cản Khí sinh học Thành tựu và rào cảnCông nghệ khí sinh học (KSH) là một công nghệ đa mục tiêu, được sử dụng đểxử lý chất thải hoặc sản xuất KSH. Do vậy, đây được xem là công nghệ môitrường hoặc công nghệ năng lượng tái tạo hoặc cả hai tùy theo mục đích.Tình hình phát triển khí sinh học ở Việt NamỞ Việt Nam, cùng với sự phát triển ngành chăn nuôi nói riêng và kinh tế nóichung, công nghệ KSH đã phát triển để đáp ứng nhu cầu về môi trường và nănglượng. KSH được bắt đầu nghiên cứu và ứng dụng từ những năm 1960 trên cảnước. Lịch sử phát triển KSH có thể được chia thành 3 thời kỳ:Thời kỳ 1960 - 1990: Mặc dù bắt đầu được nghiên cứu ứng dụng từ những năm1960 ở cả 2 miền (Bắc, Nam) nhưng KSH không được phát triển. Sau khi đấtnước được thống nhất năm 1975, do nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trongtình hình khủng hoảng năng lượng quốc tế, KSH lại được chú ý dưới góc độnăng lượng. Chương trình Nhà nước về Năng lượng mới và tái sinh đã đượctriển khai giai đoạn 1980 - 1990. Trong giai đoạn 1986 - 1990, Chương trình doBộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì với 22 đề tài, trong đó 9 đề tài thuộc về KSH.Tham gia Chương trình có các viện nghiên cứu, trường đại học và 25 Sở Khoahọc Kỹ thuật của các tỉnh.Thời kỳ 1991 - 2002: Cùng với sự phát triển của ngành chăn nuôi, KSH đượcphát triển mạnh mẽ hơn và thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức thuộc lĩnh vựcnông nghiệp. Việc ứng dụng KSH được mở rộng nhanh chóng nhờ áp dụng loạitúi ni lông rẻ tiền và dễ lắp đặt là một hợp phần của Chương trình giúp đỡ kỹthuật của Cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) và Tổ chứcNông lương Liên hợp quốc (FAO). Chương trình Mục tiêu quốc gia về cung cấpnước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn cũng ứng dụng KSH để góp phầngiải quyết vệ sinh môi trường nông thôn. Năm 2002, Bộ Nông nghiệp và Pháttriển nông thôn (NN&PTNT) đã ban hành bộ Tiêu chuẩn về KSH đầu tiên củaViệt Nam 10TCVN 492÷499 - 2002 Thiết bị KSH nhỏ.Thời kỳ từ năm 2003 đến nay: Nhiều dự án KSH trực thuộc Bộ NN&PTNTđược triển khai. Mở đầu là Dự án Chương trình KSH cho ngành chăn nuôi doChính phủ Hà Lan tài trợ được triển khai từ năm 2003, tới nay đã mở rộng tại48 tỉnh/thành phố và xây dựng được trên 120.000 công trình. Dự án An toànthực phẩm và cạnh tranh trong chăn nuôi (LIFSAP) với vốn vay của Ngân hàngThế giới (WB) thực hiện trong thời gian từ 2008 - 2013 tại 12 tỉnh/thành phố.LIFSAP cũng có hợp phần KSH với mục tiêu xây dựng 20.600 công trình. Dựán Nâng cao chất lượng và an toàn cho các sản phẩm nông nghiệp và Phát triểnKSH (QSEAP) với vốn vay của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) được triểnkhai trong thời gian 6 năm (2009 - 2015) tại 16 tỉnh/thành phố. Hợp phần KSHcó mục tiêu hỗ trợ xây dựng 40 nghìn công trình.Ngoài 3 Dự án lớn nêu trên, Chương trình Mục tiêu quốc gia về sử dụng nănglượng tiết kiệm và hiệu quả do Bộ Công Thương chủ trì cũng có nội dung hỗ trợứng dụng KSH. Hội Làm vườn Việt Nam (VACVINA) cũng phổ cập ứng dụngKSH trong việc phát triển mô hình VAC (vườn, ao, chuồng).Những thành tựu đã đạt đượcCho tới nay, KSH đã được ứng dụng tại tất cả 63 tỉnh/thành phố trong cả nước.Riêng 3 Dự án của Bộ NN&PTNT đã có 52 tỉnh tham gia. Các tỉnh/thành phốkhác tuy không tham gia 3 Dự án này nhưng có những dự án riêng của tỉnh hoặcngười dân tự xây dựng công trình.Theo Khảo sát về mức sống hộ gia đình năm 2008 (Tổng cục Thống kê), số hộchăn nuôi xử lý chất thải bằng KSH là 16,4%. Từ đó có thể ước tính số côngtrình KSH trong toàn quốc tới năm 2008 vào khoảng 1,5 triệu. Tới nay số hộchăn nuôi ứng dụng KSH khoảng 20% (1,7 triệu hộ).Từ những công trình quy mô nhỏ vài chục m3 hợp với quy mô chăn nuôi giađình đã phát triển lên những công trình quy mô vừa và lớn hàng nghìn m3 phùhợp với quy mô chăn nuôi trang trại. Từ lĩnh vực chăn nuôi, KSH đã mở rộngsang lĩnh vực công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm (rượu, bia, tinh bộtsắn, chế biến hải sản...).Hiện nay, đội ngũ những người hoạt động về KSH rất đông đảo. Bên cạnh cáctổ chức Chính phủ như: Viện nghiên cứu, Trường Đại học, các Sở NN&PTNT,KH&CN; TN&MT, Công Thương..., Hội Phụ nữ, Hội Làm vườn, Hội Nôngdân... và các công ty, cửa hàng tham gia các hoạt động như triển khai dự án, sảnxuất/hoặc cung ứng dịch vụ xây dựng và trang thiết bị. Đội ngũ thợ xây và kỹthuật viên do các dự án đào tạo đã mở rộng tới cấp huyện ở nhiều tỉnh/thànhphố trên cả nước.Trong quá trình phát triển đã có nhiều công nghệ được ứng dụng ở Việt Nam,chủ yếu là quy mô nhỏ.Ở quy mô nhỏ, loại thiết bị nắp cố định vòm cầu KT1 và KT2 được ứng dụngrộng rãi trong toàn quốc và đã được tiêu chuẩn hóa. Gần đây loại bể compozitđược sản xuất công xưởng cũng đã phát triển nhanh chóng. Một số kiểu thiết bịKSH khác như VACVINA cải tiến, KT31, EQ cũng được ứng dụng thành côngở mức độ hẹp hơn.Đối với quy mô vừa cho các trang trại chăn nuôi, các công nghệ thích hợp đượcáp dụng để xử lý chất thải chăn nuôi là bể kiểu dòng chảy ống plug-flow xâygạch, có vòm bê tông hoặc KT31 với nhiều vòm chứa khí compozit.Với quy mô lớn, loại hồ kỵ khí che phủ có suất đầu tư thấp đã được ứng dụngthành công cho nhiều trang trại và nhà máy tinh bột sắn.Bên cạnh đó, nhận thức của người dân về KSH đã nâng cao. Qua các phươngtiện thông tin đại chúng, người dân đã hiểu được những lợi ích và hoạt động củacông trình KSH. Nhiều người đã tự tìm đến các tổ chức dịch vụ và tự đầu tư xâydựng công trình.Đặc biệt, thông qua đó, nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước thuộc các lĩnh vựcmôi trường, nông nghiệp và phát triển nông thôn, năng lượng, khoa học côngnghệ có đề cập tới việc khuyến khích ứng dụng KSH. Những chính sách này đãđược cụ thể hóa với sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước trong các chương trìnhmục tiêu quốc gia và các dự án của Chính phủ. Những thành tựu đã đạt được tạođiều kiện thuận lọi cho việc mở rộng ứng dụng KSH trong thời gian tới.Những rào cản hạn chếKhả năng xây dựng các công trình KSH của người ứng ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Công nghệ khí sinh học công nghệ môi trường khủng hoảng năng lượng năng lượng tái tạo Thành tựu và rào cản công nghệ năng lượngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Sử dụng R trong phân tích hồi quy áp dụng cho dự án điện mặt trời áp mái
10 trang 393 0 0 -
Nghiên cứu đánh giá hiện trạng công nghệ điện mặt trời ở Việt Nam
4 trang 237 0 0 -
4 trang 153 0 0
-
Mô hình giám sát và điều khiển hệ thống pin mặt trời
6 trang 148 0 0 -
Báo cáo tiểu luận công nghệ môi trường: Thuế ô nhiễm
18 trang 122 0 0 -
Ứng dụng mạng nơron nhân tạo dự báo sản lượng điện của nhà máy điện mặt trời
5 trang 104 0 0 -
24 trang 102 0 0
-
Xây dựng bộ điều khiển tốc độ cho hệ nhiều động cơ bằng phương pháp điều khiển cuốn chiếu
7 trang 101 0 0 -
Luận văn: Thiết kế công nghệ nhà máy xử lý nước thải thành phố Quy Nhơn
100 trang 94 0 0 -
10 trang 92 0 0