![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ Internet Banking của sinh viên chính quy và tại chức trường ĐH Kinh tế Huế
Số trang: 150
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.70 MB
Lượt xem: 1
Lượt tải: 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đê ftaif khảo sát các mô hình lý thuyết trong việc phân tích ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến; xác định các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp đến ý định sử dụng dịch vụ IB của khách hàng cá nhân và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố;... Mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ Internet Banking của sinh viên chính quy và tại chức trường ĐH Kinh tế HuếKhóa luận tốt nghiệpGVHD: Th.S Lê Tô Minh TânPHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ1.Tính cấp thiết của đề tàiNgày nay, khi xã hội ngày một phát triển, việc không ngừng đổi mới và ứng dụngcông nghệ trở thành vấn đề sống còn đối với bất kỳ một lĩnh vực, ngành nghề kinh doanhnào. Các NHTM, với vai trò của mình là trung tâm của nền kinh tế cũng không nằm ngoàixu thế đó, đã không ngừng phát triển các sản phẩm, dịch vụ của mình nhằm đáp ứng tốtuếnhất nhu cầu của khách hàng, đồng thời để chính NH mình không tụt khỏi cuộc đua cạnhtranh đầy khốc liệt. Một trong những sản phẩm NH có được từ việc ứng dụng CNTT đã raHđời và phát triển một cách hiệu quả đó là dịch ngân hàng trực tuyến (Internet Banking).Internet Banking được xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ trong khoảng giữa nhữngtếnăm 90 của thế kỷ trước, các tổ chức tài chính ở Mỹ đã giới thiệu, quảng bá và xúctiến sản phẩm này nhằm cung cấp cho khách hàng của mình những dịch vụ NH tốthhơn, tiện ích hơn (Chan và Lu, 2004). IB trở thành một trong những chiến lược khônginthể thiếu mà các NHTM cần phải áp dụng để có thể kinh doanh hiệu quả, cung cấp sảncKphẩm chất lượng, thỏa mãn hơn nữa khách hàng, thu hút khách hàng, cũng như bắt kịpxu thế của thời đại, từ đó tạo chỗ đứng trên thị trường. NHTT đem đến rất nhiều lợiích cho cả NH cung cấp, khách hàng sử dụng cũng như cho nền kinh tế. Về phía kháchhọhàng, IB sẽ giúp tiết kiệm được thời gian, chi phí, khi thực hiện được giao dịch với NHmột cách dễ dàng và nhanh chóng, ngoài ra, khách hàng còn có thêm một phương tiệnĐạiđể quản lý tài khoản của mình thuận tiện hơn. Đối với các nhà cung cấp, dịch vụ nàysẽ giúp cho các NH có thể kiếm thêm lợi nhuận từ cắt giảm được chi phí, gia tăng uytín thương hiệu cho NH mình. Thật vậy, chi phí cho một giao dịch NH trung bình ởMỹ là 1.07$ trong khi đó chi phí cho một giao dịch qua NHTT trung bình chỉ 1.5 cents(Nathan & Pyun, 2002). Điều đó cho thấy rằng cung cấp dịch vụ này có thể hứa hẹnđem đến cho ngân hàng một khoản lợi nhuận đáng kể. Thêm vào đó, theo một nghiêncứu ở Estonia, khách hàng sử dụng dịch vụ của NH tại các kênh phân phối truyềnthống trung bình 1.235 lần một tháng và phải mất thời gian chờ đợi trung bình là 0.134giờ. Báo cáo này đã chỉ ra rằng nếu sử dụng dịch vụ NHĐT nói chung (đặc biệt làInternet Banking) sẽ tiết kiệm cho nền kinh tế 0.93% GDP (Aarma & Vensel, 2001).SVTH: Nguyễn Thị Khánh Trang K42 - TCNH1Khóa luận tốt nghiệpGVHD: Th.S Lê Tô Minh TânChính vì những lợi ích nổi bật đó mà Internet Banking đã trở thành một kênh phânphối hiện đại, đang mở rộng và thay thế dần những kênh phân phối truyền thống trênphạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, tại mỗi quốc gia, tùy thuộc vào văn hóa hay những điềukiện cụ thể tại chính đất nước đó, sự triển khai và phát triển NHTT sẽ khác nhau.Tại Việt Nam, hầu hết các ngân hàng đều đã nhận thức được tầm quan trọng củaIB và đã bắt đầu triển khai cung cấp dịch vụ này trong những năm qua. Tuy nhiên,mức độ người sử dụng dịch vụ này vẫn còn rất thấp, chưa tương xứng với tiềm nănguếcủa thị trường. Hiện nay, chỉ có 1% số người sử dụng dịch vụ ngân hàng biết và dùngđến tiện ích IB tại Việt Nam trong khi nước ta có tỷ lệ người sử dụng Internet là 24%,Hkhá cao trong khu vực Châu Á, chỉ sau Malaysia (Nielsen, 2010). Khách hàng phầnlớn vẫn còn dè dặt, thăm dò và sử dụng hạn chế vì NHTT còn mới mẻ và lạ lẫm. Chínhtếvì vậy việc có được một cái nhìn đầy đủ về những tác nhân ảnh hưởng đến việc sửdụng tiện ích IB của khách hàng là điều rất cần thiết. Vấn đề này đã được rất nhiều cáchnhà khoa học trên thế giới cũng như tại Việt Nam theo đuổi để tìm ra câu trả lời. Mỗiinmột nghiên cứu được thực hiện đều ít nhiều khám phá cũng như khẳng định được phầncKnào những nhân tố cơ bản. Tuy nhiên, mỗi một quốc gia, một vùng miền với nhữngđặc tính về nền kinh tế xã hội, văn hóa và đặc biệt là yếu tố con người sẽ ảnh hưởngkhông nhỏ đến quá trình cũng như kết quả nghiên cứu. Từ đó, sẽ có những khác biệthọnhất định. Tại Việt Nam nói chung cũng như Huế nói riêng đã có một số các nghiêncứu về vấn đề này theo nhiều hướng và khía cạnh khác nhau. Thiết nghĩ, đối với mộtĐạidịch vụ còn khá mới mẻ và tiềm năng đầy hứa hẹn như NHTT thì việc có một cái nhìntổng quan, đầy đủ cũng như nghiên cứu sâu hơn về những yếu tố khiến khách hàng lựachọn kênh phân phối này là một việc hữu ích. Nhận thấy được điều đó, trên cơ sở kếthừa và tiếp thu những kết quả của các nghiên cứu trước, tôi xin mạnh dạn lựa chọn đềtài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ InternetBanking của sinh viên chính quy và tại chức trường ĐH Kinh tế Huế”. Đề tài đềcập đến những nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ này của đối tượng kháchhàng cá nhân và đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. Cụ thể đề tài tập trungvào những đối tượng chủ yếu là những sinh viên của trường ĐH Kinh tế Huế (Baogồm cả sinh viên hệ chính quy và hệ tại chức). Theo King và He (2006), Sinh viên làSVTH: Nguyễn Thị Khánh Trang K42 - TCNH2Khóa luận tốt nghiệpGVHD: Th.S Lê Tô Minh Tânđối tượng có thể dễ dàng là những khách hàng tiếp cận với các dịch vụ trực tuyến,trình độ nhận thức ở mức cao hơn so với mặt bằng dân chúng phổ thông. Do đó, đốivới Việt Nam nói chung hay Huế nói riêng, nơi mà trình độ dân trí cũng như nhận thứccủa người dân chưa được cao như các nước tiên tiến trên thế giới thì nghiên cứu việc ýđịnh sử dụng của một dịch vụ gắn liền với công nghệ mới trên đối tượng là SV sẽ đemlại kết quả và là một việc nên làm. Cuối cùng, hy vọng rằng đề tài sẽ đóng góp đượcphần nào cho công tác nghiên cứu cũng như cho tiến trình ứng dụng IB tại Việt Namuếnói chung cũng như Huế nói riêng sau này.2. Mục tiêu nghiên cứuH Khảo sát các mô hình lý thuyết trong việc phân tích ý định sử dụng dịch ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khóa luận tốt nghiệp: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ Internet Banking của sinh viên chính quy và tại chức trường ĐH Kinh tế HuếKhóa luận tốt nghiệpGVHD: Th.S Lê Tô Minh TânPHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ1.Tính cấp thiết của đề tàiNgày nay, khi xã hội ngày một phát triển, việc không ngừng đổi mới và ứng dụngcông nghệ trở thành vấn đề sống còn đối với bất kỳ một lĩnh vực, ngành nghề kinh doanhnào. Các NHTM, với vai trò của mình là trung tâm của nền kinh tế cũng không nằm ngoàixu thế đó, đã không ngừng phát triển các sản phẩm, dịch vụ của mình nhằm đáp ứng tốtuếnhất nhu cầu của khách hàng, đồng thời để chính NH mình không tụt khỏi cuộc đua cạnhtranh đầy khốc liệt. Một trong những sản phẩm NH có được từ việc ứng dụng CNTT đã raHđời và phát triển một cách hiệu quả đó là dịch ngân hàng trực tuyến (Internet Banking).Internet Banking được xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ trong khoảng giữa nhữngtếnăm 90 của thế kỷ trước, các tổ chức tài chính ở Mỹ đã giới thiệu, quảng bá và xúctiến sản phẩm này nhằm cung cấp cho khách hàng của mình những dịch vụ NH tốthhơn, tiện ích hơn (Chan và Lu, 2004). IB trở thành một trong những chiến lược khônginthể thiếu mà các NHTM cần phải áp dụng để có thể kinh doanh hiệu quả, cung cấp sảncKphẩm chất lượng, thỏa mãn hơn nữa khách hàng, thu hút khách hàng, cũng như bắt kịpxu thế của thời đại, từ đó tạo chỗ đứng trên thị trường. NHTT đem đến rất nhiều lợiích cho cả NH cung cấp, khách hàng sử dụng cũng như cho nền kinh tế. Về phía kháchhọhàng, IB sẽ giúp tiết kiệm được thời gian, chi phí, khi thực hiện được giao dịch với NHmột cách dễ dàng và nhanh chóng, ngoài ra, khách hàng còn có thêm một phương tiệnĐạiđể quản lý tài khoản của mình thuận tiện hơn. Đối với các nhà cung cấp, dịch vụ nàysẽ giúp cho các NH có thể kiếm thêm lợi nhuận từ cắt giảm được chi phí, gia tăng uytín thương hiệu cho NH mình. Thật vậy, chi phí cho một giao dịch NH trung bình ởMỹ là 1.07$ trong khi đó chi phí cho một giao dịch qua NHTT trung bình chỉ 1.5 cents(Nathan & Pyun, 2002). Điều đó cho thấy rằng cung cấp dịch vụ này có thể hứa hẹnđem đến cho ngân hàng một khoản lợi nhuận đáng kể. Thêm vào đó, theo một nghiêncứu ở Estonia, khách hàng sử dụng dịch vụ của NH tại các kênh phân phối truyềnthống trung bình 1.235 lần một tháng và phải mất thời gian chờ đợi trung bình là 0.134giờ. Báo cáo này đã chỉ ra rằng nếu sử dụng dịch vụ NHĐT nói chung (đặc biệt làInternet Banking) sẽ tiết kiệm cho nền kinh tế 0.93% GDP (Aarma & Vensel, 2001).SVTH: Nguyễn Thị Khánh Trang K42 - TCNH1Khóa luận tốt nghiệpGVHD: Th.S Lê Tô Minh TânChính vì những lợi ích nổi bật đó mà Internet Banking đã trở thành một kênh phânphối hiện đại, đang mở rộng và thay thế dần những kênh phân phối truyền thống trênphạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, tại mỗi quốc gia, tùy thuộc vào văn hóa hay những điềukiện cụ thể tại chính đất nước đó, sự triển khai và phát triển NHTT sẽ khác nhau.Tại Việt Nam, hầu hết các ngân hàng đều đã nhận thức được tầm quan trọng củaIB và đã bắt đầu triển khai cung cấp dịch vụ này trong những năm qua. Tuy nhiên,mức độ người sử dụng dịch vụ này vẫn còn rất thấp, chưa tương xứng với tiềm nănguếcủa thị trường. Hiện nay, chỉ có 1% số người sử dụng dịch vụ ngân hàng biết và dùngđến tiện ích IB tại Việt Nam trong khi nước ta có tỷ lệ người sử dụng Internet là 24%,Hkhá cao trong khu vực Châu Á, chỉ sau Malaysia (Nielsen, 2010). Khách hàng phầnlớn vẫn còn dè dặt, thăm dò và sử dụng hạn chế vì NHTT còn mới mẻ và lạ lẫm. Chínhtếvì vậy việc có được một cái nhìn đầy đủ về những tác nhân ảnh hưởng đến việc sửdụng tiện ích IB của khách hàng là điều rất cần thiết. Vấn đề này đã được rất nhiều cáchnhà khoa học trên thế giới cũng như tại Việt Nam theo đuổi để tìm ra câu trả lời. Mỗiinmột nghiên cứu được thực hiện đều ít nhiều khám phá cũng như khẳng định được phầncKnào những nhân tố cơ bản. Tuy nhiên, mỗi một quốc gia, một vùng miền với nhữngđặc tính về nền kinh tế xã hội, văn hóa và đặc biệt là yếu tố con người sẽ ảnh hưởngkhông nhỏ đến quá trình cũng như kết quả nghiên cứu. Từ đó, sẽ có những khác biệthọnhất định. Tại Việt Nam nói chung cũng như Huế nói riêng đã có một số các nghiêncứu về vấn đề này theo nhiều hướng và khía cạnh khác nhau. Thiết nghĩ, đối với mộtĐạidịch vụ còn khá mới mẻ và tiềm năng đầy hứa hẹn như NHTT thì việc có một cái nhìntổng quan, đầy đủ cũng như nghiên cứu sâu hơn về những yếu tố khiến khách hàng lựachọn kênh phân phối này là một việc hữu ích. Nhận thấy được điều đó, trên cơ sở kếthừa và tiếp thu những kết quả của các nghiên cứu trước, tôi xin mạnh dạn lựa chọn đềtài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ InternetBanking của sinh viên chính quy và tại chức trường ĐH Kinh tế Huế”. Đề tài đềcập đến những nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ này của đối tượng kháchhàng cá nhân và đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố. Cụ thể đề tài tập trungvào những đối tượng chủ yếu là những sinh viên của trường ĐH Kinh tế Huế (Baogồm cả sinh viên hệ chính quy và hệ tại chức). Theo King và He (2006), Sinh viên làSVTH: Nguyễn Thị Khánh Trang K42 - TCNH2Khóa luận tốt nghiệpGVHD: Th.S Lê Tô Minh Tânđối tượng có thể dễ dàng là những khách hàng tiếp cận với các dịch vụ trực tuyến,trình độ nhận thức ở mức cao hơn so với mặt bằng dân chúng phổ thông. Do đó, đốivới Việt Nam nói chung hay Huế nói riêng, nơi mà trình độ dân trí cũng như nhận thứccủa người dân chưa được cao như các nước tiên tiến trên thế giới thì nghiên cứu việc ýđịnh sử dụng của một dịch vụ gắn liền với công nghệ mới trên đối tượng là SV sẽ đemlại kết quả và là một việc nên làm. Cuối cùng, hy vọng rằng đề tài sẽ đóng góp đượcphần nào cho công tác nghiên cứu cũng như cho tiến trình ứng dụng IB tại Việt Namuếnói chung cũng như Huế nói riêng sau này.2. Mục tiêu nghiên cứuH Khảo sát các mô hình lý thuyết trong việc phân tích ý định sử dụng dịch ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Khóa luận tốt nghiệp Sử dụng dịch vụ Internet banking Dịch vụ Internet banking Khách hàng sinh viên Ngân hàng trực tuyến Đại học Kinh tế HuếTài liệu liên quan:
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
79 trang 1751 15 0 -
72 trang 1102 1 0
-
Khoá luận tốt nghiệp: Văn hóa làng quê trong thơ Nguyễn Bính trước cách mạng tháng tám năm 1945
61 trang 580 0 0 -
78 trang 550 1 0
-
Khoá luận tốt nghiệp: Đặc điểm thi pháp truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
144 trang 392 0 0 -
67 trang 378 1 0
-
72 trang 376 1 0
-
129 trang 355 0 0
-
53 trang 345 0 0
-
100 trang 339 1 0