Khoảng trống của thị trường tài chính?
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 114.54 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Dự thảo sửa đổi bổ sung Luật Các Tổ chức tín dụng gần đây nhất (lần 8) đã quy định các NHTM không được cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, khiến nhiều người băn khoăn vì những bất cập.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khoảng trống của thị trường tài chính? Khoảng trống của thịtrường tài chính?Dự thảo sửa đổi bổ sung Luật Các Tổ chức tín dụng gần đây nhất(lần 8) đã quy định các NHTM không được cho vay đầu tư, kinhdoanh chứng khoán, khiến nhiều người băn khoăn vì những bấtcập.Luật Các Tổ chức tín dụng (TCTD) năm 1997 chưa có điều khoảncụ thể nào liên quan đến việc NHTM cấp tín dụng cho đầu tư,kinh doanh CK (cho vay CK). Khi TTCK VN được thành lập vàphát triển thì các NH coi việc cho vay CK như một hình thức cấptín dụng thương mại bình thường khác.Thời kỳ 6 tháng cuối năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007, mứccho vay đầu tư CK (cả niêm yết và OTC) của các NH đã tăng rấtnhanh (một số NHTMCP tỉ lệ cho vay CK lên tới trên 50%/tổng dưnợ). Đây cũng chính là thời kỳ TTCK diễn biến phức tạp, tăngtrưởng rất nóng.Trước xu hướng vốn tín dụng tăng trưởng khá nóng, việc cácNHTM cho vay để đầu tư, kinh doanh CK có nguy cơ rủi ro rấtcao do TTCK đang điều chỉnh theo xu hướng giảm. Trong khi đó,việc thu thập thông tin từ thị trường để đánh giá, quản trị rủi rocòn bất cập, tháng 5.2007, NHNN đã có Chỉ thị 03 khống chế dưnợ cho vay, chiết khấu chứng từ có giá (GTCG) để đầu tư, kinhdoanh CK ở mức dưới 3%/tổng dư nợ của các TCTD.Tháng 2.2008, NHNN có Quyết định 03 quy định tổng dư nợ chovay, chiết khấu GTCG để đầu tư, kinh doanh CK không vượt quá20% VĐL của TCTD. Quy định này đến nay vẫn còn hiệu lực thihành.Sau hơn 1 năm TTCK liên tục điều chỉnh giảm sâu, cộng với việcthanh tra, giám sát chặt chẽ của NHNN, dư nợ cho vay CK củacác NHTM đến giữa năm 2008 đã giảm gần một nửa so với thờiđiểm cuối năm 2007. Năm 2008 cũng là năm một số NHTM CPgặp rủi ro vì khách hàng vay kinh doanh CK không thể trả nợ đếnhạn và giá CK mà NH giải chấp thấp hơn nhiều thời điểm chovay.Phải cấm để hạn chế rủi ro?Trong mục Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt độngcủa TCTD (dự thảo Luật Các TCTD) đã cấm NHTM không đượccho vay đầu tư, kinh doanh CK. Quy định này mặc dù được nhiềuý kiến ủng hộ vì cho rằng theo thông lệ quốc tế tốt nhất thì hoạtđộng cho vay đầu tư CK là một hoạt động môi giới chứ khôngphải hoạt động NH do tính chuyên biệt và có rủi ro cao của hoạtđộng này, việc cho vay đầu tư CK thường chỉ nên được thực hiệnbởi các Cty môi giới CK hoặc Cty con của các Cty môi giới CK.Đây cũng chính là quan điểm đã được ông Fiach Mc Cane -nguyên là Trưởng bộ phận nghiên cứu của NH Đầu tư SLB (Đức)tại Nhật Bản, Giám đốc nghiên cứu của Cty Vinacapital đề cậpđến trong một bài viết mà NHNN đã tham khảo khi chuẩn bị banhành Chỉ thị 03 năm 2007. Quan điểm của ông Fiach Mc Canehiện còn để lại dấu ấn khá rõ trong quy định không cho phép cácNHTM cho vay CK của dự thảo Luật Các TCTD lần này.Tuy nhiên, cũng có những ý kiến băn khoăn vì những bất cập củaquy định trong hai vấn đề: Thứ nhất: Định chế tài chính nào ở VNsẽ cấp tín dụng cho TTCK trong những năm tới khi mà ở VNchưa có mô hình NH đầu tư mà mới chỉ có mô hình NHTM đanăng? Nếu cho rằng việc cấp tín dụng này là của các Cty con,Cty liên kết thì các Cty này ở VN cũng không đủ năng lực để thựchiện. Như vậy, nếu dự thảo Luật Các TCTD được thông qua thìsẽ có một khoảng trống về hành lang pháp lý cho hoạt động cấptín dụng cho TTCK.Thứ hai: Hầu hết các nước trên thế giới không cấm NHTM chovay CK và không quy định tỉ lệ cho vay CK/tổng dư nợ. Họ giámsát và hạn chế bằng các yêu cầu về quản lý rủi ro là chính. CácNHTM tự chịu trách nhiệm để quản trị rủi ro cho vay CK củamình. Vậy việc cấm các NHTM VN và chi nhánh NH nước ngoàiở VN cho vay CK liệu có phù hợp với thông lệ và có độ mở chosự phát triển và hội nhập của các NHTM VN, trong thời gian tớihay không?Sẽ ảnh hưởng đến TTCKĐến giữa năm 2008, tổng dư nợ cho vay CK của các NHTM cònkhoảng gần 6.600 tỉ đồng. Số dư nợ này đến nay chắc cũng chưatăng nhiều vì từ đó đến đầu năm 2009 các NH rất hạn chế chovay CK. Giả sử các NHTM cho vay hết hạn mức 20%/VĐL (chứkhông phải 3%/VĐL như một số báo đã đưa tin gần đây) thì vớimức VĐL hiện tại số vốn tối đa các NHTM có thể cho vay CK lêntới 7.000 tỉ đồng.Nếu dự thảo sửa đổi Luật Các TCTD được Quốc hội thông quavào đầu năm sau như dự kiến thì tác động của việc các NHTMkhông được cho vay CK sẽ tác động rất lớn đến thị trường (chodù các cơ quan quản lý cũng phải có lộ trình để các NHTM rútdần dư nợ như thời gian thực hiện Chỉ thị 03) làm cho nguồncung CK tăng lên trong khi sức cầu của thị trường có hạn bởikhách hàng (NĐT) nhiều khả năng phải bán CK để có tiền trả nợvay.Đó là chưa kể với việc thông qua Luật Các TCTD vào thời điểmnày, NHNN đã gián tiếp gửi tới TTCK một thông điệp mang sựcảnh báo rằng TTCK còn rất nhiều rủi ro thì làm sao giúp NĐTtăng thêm niềm tin để đổ vốn vào giúp TTCK sớm hồi phục?Ngoài ảnh hưởng đối với thị trường và các NĐT, các NHTM cũngbị ảnh hưởng không nhỏ khi mà cho vay CK đang là một hoạtđộng kinh doanh của NHTM. Nếu quản trị rủi ro tốt thì đây vẫn làphân khúc thị trường đem lại nguồn lợi nhuận ổn định (như việccho vay kinh doanh CK theo phương thức T+3 hiện nay mà cácNHTM đang làm)... Đây chính là những bất cập mà những nhàsoạn thảo luật nên cân nhắc trước khi trình Quốc hội thông qua.Để kết thúc bài báo này, người viết xin mượn ý kiến của ông QiaoYide - Phó Tổng thư ký Hội đồng Xúc tiến phát triển kinh tếYangtze Delta - Shanghai - Hongkong (lưu vực sông Dương Tử -Thượng Hải - Hồng Kông) phát biểu tại bàn tròn: Củng cố hệthống tài chính toàn cầu: Điều tiết và đổi mới trong khuôn khổHội nghị doanh nghiệp Châu Á lần thứ 19 của Asia Society(4.2009) tại TPHCM:Trong một thế giới mà dòng vốn di chuyển nhanh, cần cải tiến,áp dụng sáng tạo các sản phẩm tài chính. Trung Quốc đang CKhoá các loại tài sản một cách mạnh mẽ hơn. Đừng thấy những gìxảy ra ở Mỹ (mua bán sản phẩm phái sinh vượt tầm kiểm soát)mà sợ quá, nên tránh xa, không dám làm. Vấn đề là sử dụngcông ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khoảng trống của thị trường tài chính? Khoảng trống của thịtrường tài chính?Dự thảo sửa đổi bổ sung Luật Các Tổ chức tín dụng gần đây nhất(lần 8) đã quy định các NHTM không được cho vay đầu tư, kinhdoanh chứng khoán, khiến nhiều người băn khoăn vì những bấtcập.Luật Các Tổ chức tín dụng (TCTD) năm 1997 chưa có điều khoảncụ thể nào liên quan đến việc NHTM cấp tín dụng cho đầu tư,kinh doanh CK (cho vay CK). Khi TTCK VN được thành lập vàphát triển thì các NH coi việc cho vay CK như một hình thức cấptín dụng thương mại bình thường khác.Thời kỳ 6 tháng cuối năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007, mứccho vay đầu tư CK (cả niêm yết và OTC) của các NH đã tăng rấtnhanh (một số NHTMCP tỉ lệ cho vay CK lên tới trên 50%/tổng dưnợ). Đây cũng chính là thời kỳ TTCK diễn biến phức tạp, tăngtrưởng rất nóng.Trước xu hướng vốn tín dụng tăng trưởng khá nóng, việc cácNHTM cho vay để đầu tư, kinh doanh CK có nguy cơ rủi ro rấtcao do TTCK đang điều chỉnh theo xu hướng giảm. Trong khi đó,việc thu thập thông tin từ thị trường để đánh giá, quản trị rủi rocòn bất cập, tháng 5.2007, NHNN đã có Chỉ thị 03 khống chế dưnợ cho vay, chiết khấu chứng từ có giá (GTCG) để đầu tư, kinhdoanh CK ở mức dưới 3%/tổng dư nợ của các TCTD.Tháng 2.2008, NHNN có Quyết định 03 quy định tổng dư nợ chovay, chiết khấu GTCG để đầu tư, kinh doanh CK không vượt quá20% VĐL của TCTD. Quy định này đến nay vẫn còn hiệu lực thihành.Sau hơn 1 năm TTCK liên tục điều chỉnh giảm sâu, cộng với việcthanh tra, giám sát chặt chẽ của NHNN, dư nợ cho vay CK củacác NHTM đến giữa năm 2008 đã giảm gần một nửa so với thờiđiểm cuối năm 2007. Năm 2008 cũng là năm một số NHTM CPgặp rủi ro vì khách hàng vay kinh doanh CK không thể trả nợ đếnhạn và giá CK mà NH giải chấp thấp hơn nhiều thời điểm chovay.Phải cấm để hạn chế rủi ro?Trong mục Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt độngcủa TCTD (dự thảo Luật Các TCTD) đã cấm NHTM không đượccho vay đầu tư, kinh doanh CK. Quy định này mặc dù được nhiềuý kiến ủng hộ vì cho rằng theo thông lệ quốc tế tốt nhất thì hoạtđộng cho vay đầu tư CK là một hoạt động môi giới chứ khôngphải hoạt động NH do tính chuyên biệt và có rủi ro cao của hoạtđộng này, việc cho vay đầu tư CK thường chỉ nên được thực hiệnbởi các Cty môi giới CK hoặc Cty con của các Cty môi giới CK.Đây cũng chính là quan điểm đã được ông Fiach Mc Cane -nguyên là Trưởng bộ phận nghiên cứu của NH Đầu tư SLB (Đức)tại Nhật Bản, Giám đốc nghiên cứu của Cty Vinacapital đề cậpđến trong một bài viết mà NHNN đã tham khảo khi chuẩn bị banhành Chỉ thị 03 năm 2007. Quan điểm của ông Fiach Mc Canehiện còn để lại dấu ấn khá rõ trong quy định không cho phép cácNHTM cho vay CK của dự thảo Luật Các TCTD lần này.Tuy nhiên, cũng có những ý kiến băn khoăn vì những bất cập củaquy định trong hai vấn đề: Thứ nhất: Định chế tài chính nào ở VNsẽ cấp tín dụng cho TTCK trong những năm tới khi mà ở VNchưa có mô hình NH đầu tư mà mới chỉ có mô hình NHTM đanăng? Nếu cho rằng việc cấp tín dụng này là của các Cty con,Cty liên kết thì các Cty này ở VN cũng không đủ năng lực để thựchiện. Như vậy, nếu dự thảo Luật Các TCTD được thông qua thìsẽ có một khoảng trống về hành lang pháp lý cho hoạt động cấptín dụng cho TTCK.Thứ hai: Hầu hết các nước trên thế giới không cấm NHTM chovay CK và không quy định tỉ lệ cho vay CK/tổng dư nợ. Họ giámsát và hạn chế bằng các yêu cầu về quản lý rủi ro là chính. CácNHTM tự chịu trách nhiệm để quản trị rủi ro cho vay CK củamình. Vậy việc cấm các NHTM VN và chi nhánh NH nước ngoàiở VN cho vay CK liệu có phù hợp với thông lệ và có độ mở chosự phát triển và hội nhập của các NHTM VN, trong thời gian tớihay không?Sẽ ảnh hưởng đến TTCKĐến giữa năm 2008, tổng dư nợ cho vay CK của các NHTM cònkhoảng gần 6.600 tỉ đồng. Số dư nợ này đến nay chắc cũng chưatăng nhiều vì từ đó đến đầu năm 2009 các NH rất hạn chế chovay CK. Giả sử các NHTM cho vay hết hạn mức 20%/VĐL (chứkhông phải 3%/VĐL như một số báo đã đưa tin gần đây) thì vớimức VĐL hiện tại số vốn tối đa các NHTM có thể cho vay CK lêntới 7.000 tỉ đồng.Nếu dự thảo sửa đổi Luật Các TCTD được Quốc hội thông quavào đầu năm sau như dự kiến thì tác động của việc các NHTMkhông được cho vay CK sẽ tác động rất lớn đến thị trường (chodù các cơ quan quản lý cũng phải có lộ trình để các NHTM rútdần dư nợ như thời gian thực hiện Chỉ thị 03) làm cho nguồncung CK tăng lên trong khi sức cầu của thị trường có hạn bởikhách hàng (NĐT) nhiều khả năng phải bán CK để có tiền trả nợvay.Đó là chưa kể với việc thông qua Luật Các TCTD vào thời điểmnày, NHNN đã gián tiếp gửi tới TTCK một thông điệp mang sựcảnh báo rằng TTCK còn rất nhiều rủi ro thì làm sao giúp NĐTtăng thêm niềm tin để đổ vốn vào giúp TTCK sớm hồi phục?Ngoài ảnh hưởng đối với thị trường và các NĐT, các NHTM cũngbị ảnh hưởng không nhỏ khi mà cho vay CK đang là một hoạtđộng kinh doanh của NHTM. Nếu quản trị rủi ro tốt thì đây vẫn làphân khúc thị trường đem lại nguồn lợi nhuận ổn định (như việccho vay kinh doanh CK theo phương thức T+3 hiện nay mà cácNHTM đang làm)... Đây chính là những bất cập mà những nhàsoạn thảo luật nên cân nhắc trước khi trình Quốc hội thông qua.Để kết thúc bài báo này, người viết xin mượn ý kiến của ông QiaoYide - Phó Tổng thư ký Hội đồng Xúc tiến phát triển kinh tếYangtze Delta - Shanghai - Hongkong (lưu vực sông Dương Tử -Thượng Hải - Hồng Kông) phát biểu tại bàn tròn: Củng cố hệthống tài chính toàn cầu: Điều tiết và đổi mới trong khuôn khổHội nghị doanh nghiệp Châu Á lần thứ 19 của Asia Society(4.2009) tại TPHCM:Trong một thế giới mà dòng vốn di chuyển nhanh, cần cải tiến,áp dụng sáng tạo các sản phẩm tài chính. Trung Quốc đang CKhoá các loại tài sản một cách mạnh mẽ hơn. Đừng thấy những gìxảy ra ở Mỹ (mua bán sản phẩm phái sinh vượt tầm kiểm soát)mà sợ quá, nên tránh xa, không dám làm. Vấn đề là sử dụngcông ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kiến thức tài chính phân tích tài chính quản trị tài chính kĩ năng tài chính báo cáo tài chínhGợi ý tài liệu liên quan:
-
18 trang 462 0 0
-
Phương pháp phân tích báo cáo tài chính: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Ngọc Quang
175 trang 377 1 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Nguyễn Thu Thủy
206 trang 370 10 0 -
Giáo trình Phân tích báo cáo tài chính (Tái bản lần thứ ba): Phần 2
194 trang 290 1 0 -
Các bước trong phương pháp phân tích báo cáo tài chính đúng chuẩn
5 trang 288 0 0 -
Giáo trình Phân tích báo cáo tài chính: Phần 2 (Tái bản lần thứ nhất)
388 trang 269 1 0 -
Kế toán cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp
52 trang 249 0 0 -
88 trang 233 1 0
-
26 trang 219 0 0
-
128 trang 216 0 0