Khủng hoảng kinh tế thế giới và bài học cho Việt Nam
Số trang: 17
Loại file: pdf
Dung lượng: 999.48 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài này nhằm vào việc tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng. Đồng thời, cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu về chính sách tài chính lành mạnh, nhằm tận dụng được các cơ hội phát triển, hội nhập kinh tế trong tương lai. Vì tính phức tạp của vấn đề, bài viết này chỉ mong đóng góp thêm phần nào vào nhận thức chung về các vấn đề cần quan tâm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khủng hoảng kinh tế thế giới và bài học cho Việt NamBài Nghiên cứu NC-11/2009Khủng hoảng Kinh tế Thế giới và bài học cho Việt NamTS. Lê Hồng Nhật© 2009 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sáchBài Nghiên cứu NC-11/2009Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà NộiKhủng hoảng Kinh tế Thế giới và bài học cho Việt NamTS. Lê Hồng Nhật1Tóm tắtKhủng hoảng tài chính mới đây ở Mỹ là một điều ít ai ngờ, cả về mức độ nghiêmtrọng, lẫn quy mô ảnh hưởng của nó lên hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu.Bài này nhằm vào việc tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng.Đồng thời, cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu về chính sách tàichính lành mạnh, nhằm tận dụng được các cơ hội phát triển, hội nhập kinh tếtrong tương lai. Vì tính phức tạp của vấn đề, bài viết này chỉ mong đóng góp thêmphần nào vào nhận thức chung về các vấn đề cần quan tâm.Quan điểm được trình bày trong bài nghiên cứu này là của (các) tác giả và không nhất thiếtphản ánh quan điểm của CEPR.1Khoa Kinh tế, ĐHQG TP HCM. (Bài viết cho hội thảo “Một số lý thuyết kinh tế chính trên thế giới hiện nayqua khủng hoảng toàn cầu và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam” do Hội đồng Lý luận Trung ương tổ chức tạiHà Nội, ngày 20, 21 tháng 8 năm 2009).1Mục lụcMột số trường phái kinh tế về khủng hoảng tài chính ...............................................................3Các giai đoạn trước khủng hoảng tài chính của Mỹ ..................................................................5Nhìn sâu vào nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng – Giám sát tài chính lỏng lẻo, đi kèmvới mất cân đối vĩ mô quá lớn ...................................................................................................9Bài học rút ra cho Việt nam .....................................................................................................11Tài liệu tham khảo ...................................................................................................................142Một số trường phái kinh tế về khủng hoảng tài chínhKhủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho nó khôngthể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất: (1) Ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sảntài chính như một phương tiện giao dịch , cất trữ tài sản, và (2) là trung gian chuyển vốn tiếtkiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Hệ quả là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạotăng trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với giảmphát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính: Nhóm thứ nhất là nhữngngười theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists View), dẫn đầu là Friedman và Schwartz (1963).Họ cho rằng, khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng (bankingpanics), gây nên sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầutư. Họ bỏ qua những nguyên nhân thực, như sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy sụpcủa nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, theo họ, sự can thiệp của chính phủ là không cần thết, vàthậm chí có hại, vì những doanh nghiệp đáng ra phải để cho bị phá sản, lại có thể được cứuvớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền tệ và gây nên lạm phát.Đối lập với nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View, dẫn đầu là Kindleberger (1978)và Misky (1972). Họ có quan niệm rộng hơn về khủng hoảng tài chính và tiền tệ, mà nó baogồm sự sụt giảm của hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều công ty tài chính và phi tàichính, nạn giảm phát, đi kèm với sự rối loạn của thị trường ngoại hối. Những yếu tố này gâysự sụt giảm mạnh về tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, nên cần phải có sự can thiệp của nhà nước.Điều đáng nói là họ không đưa ra một đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, đểlàm tiền đề cho một chính sách kích thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của chính phủ rấtdễ dẫn đến lạm phát và trì trệ, như những người theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý.Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính, dẫn đầu là Stiglitz vàWeiss (1981). Theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi rocao, do ngân hàng đầu tư hay tổ chức cho vay thường không nắm rõ thông tin về khả năngsinh lợi và mức độ rủi ro của dự án đầu tư bằng cá nhân hay tổ chức đi vay; tức là nhữngngười chủ dự án. Sự khác biệt này về thông tin (asymmetry of information), hay sự thiếuminh bạch về thông tin các dự án, khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì rằng:Ngân hàng có thể muốn ép lãi suất thực, cộng các phí dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi3ro mất vốn có thể xẩy ra. Nhưng điều này lại khiến cho chỉ có những dự án có độ rủi ro caonhất mới hy vọng có đủ khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ, nếu may mắn thành công. Ngượclại, nếu đó là dự án của những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (nhưng cũng chính vìvậy mà mức sinh lãi thấp hơn), thì sẽ khó có thể đi vay được vốn. Vì vậy, khi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khủng hoảng kinh tế thế giới và bài học cho Việt NamBài Nghiên cứu NC-11/2009Khủng hoảng Kinh tế Thế giới và bài học cho Việt NamTS. Lê Hồng Nhật© 2009 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sáchBài Nghiên cứu NC-11/2009Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà NộiKhủng hoảng Kinh tế Thế giới và bài học cho Việt NamTS. Lê Hồng Nhật1Tóm tắtKhủng hoảng tài chính mới đây ở Mỹ là một điều ít ai ngờ, cả về mức độ nghiêmtrọng, lẫn quy mô ảnh hưởng của nó lên hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu.Bài này nhằm vào việc tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng.Đồng thời, cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu về chính sách tàichính lành mạnh, nhằm tận dụng được các cơ hội phát triển, hội nhập kinh tếtrong tương lai. Vì tính phức tạp của vấn đề, bài viết này chỉ mong đóng góp thêmphần nào vào nhận thức chung về các vấn đề cần quan tâm.Quan điểm được trình bày trong bài nghiên cứu này là của (các) tác giả và không nhất thiếtphản ánh quan điểm của CEPR.1Khoa Kinh tế, ĐHQG TP HCM. (Bài viết cho hội thảo “Một số lý thuyết kinh tế chính trên thế giới hiện nayqua khủng hoảng toàn cầu và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam” do Hội đồng Lý luận Trung ương tổ chức tạiHà Nội, ngày 20, 21 tháng 8 năm 2009).1Mục lụcMột số trường phái kinh tế về khủng hoảng tài chính ...............................................................3Các giai đoạn trước khủng hoảng tài chính của Mỹ ..................................................................5Nhìn sâu vào nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng – Giám sát tài chính lỏng lẻo, đi kèmvới mất cân đối vĩ mô quá lớn ...................................................................................................9Bài học rút ra cho Việt nam .....................................................................................................11Tài liệu tham khảo ...................................................................................................................142Một số trường phái kinh tế về khủng hoảng tài chínhKhủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho nó khôngthể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất: (1) Ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sảntài chính như một phương tiện giao dịch , cất trữ tài sản, và (2) là trung gian chuyển vốn tiếtkiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Hệ quả là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạotăng trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với giảmphát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính: Nhóm thứ nhất là nhữngngười theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists View), dẫn đầu là Friedman và Schwartz (1963).Họ cho rằng, khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng (bankingpanics), gây nên sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầutư. Họ bỏ qua những nguyên nhân thực, như sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy sụpcủa nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, theo họ, sự can thiệp của chính phủ là không cần thết, vàthậm chí có hại, vì những doanh nghiệp đáng ra phải để cho bị phá sản, lại có thể được cứuvớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền tệ và gây nên lạm phát.Đối lập với nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View, dẫn đầu là Kindleberger (1978)và Misky (1972). Họ có quan niệm rộng hơn về khủng hoảng tài chính và tiền tệ, mà nó baogồm sự sụt giảm của hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều công ty tài chính và phi tàichính, nạn giảm phát, đi kèm với sự rối loạn của thị trường ngoại hối. Những yếu tố này gâysự sụt giảm mạnh về tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, nên cần phải có sự can thiệp của nhà nước.Điều đáng nói là họ không đưa ra một đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, đểlàm tiền đề cho một chính sách kích thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của chính phủ rấtdễ dẫn đến lạm phát và trì trệ, như những người theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý.Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính, dẫn đầu là Stiglitz vàWeiss (1981). Theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi rocao, do ngân hàng đầu tư hay tổ chức cho vay thường không nắm rõ thông tin về khả năngsinh lợi và mức độ rủi ro của dự án đầu tư bằng cá nhân hay tổ chức đi vay; tức là nhữngngười chủ dự án. Sự khác biệt này về thông tin (asymmetry of information), hay sự thiếuminh bạch về thông tin các dự án, khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì rằng:Ngân hàng có thể muốn ép lãi suất thực, cộng các phí dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi3ro mất vốn có thể xẩy ra. Nhưng điều này lại khiến cho chỉ có những dự án có độ rủi ro caonhất mới hy vọng có đủ khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ, nếu may mắn thành công. Ngượclại, nếu đó là dự án của những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (nhưng cũng chính vìvậy mà mức sinh lãi thấp hơn), thì sẽ khó có thể đi vay được vốn. Vì vậy, khi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Kinh tế học Nghiên cứu kinh tế Khủng hoảng kinh tế thế giới Khủng hoảng tài chính Khủng hoảng tài chính của Mỹ Mất cân đối vĩ môGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 579 0 0 -
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 330 0 0 -
Giáo trình Kinh tế học vi mô cơ bản (Tái bản lần 1): Phần 1
72 trang 234 0 0 -
Giáo trình Nguyên lý kinh tế học vi mô: Phần 1 - TS. Vũ Kim Dung
126 trang 231 6 0 -
Trọng dụng nhân tài: Quyết làm và biết làm
3 trang 216 0 0 -
Đề tài báo cáo ' Xác định nhu cầu bảo hiểm y tế tự nguyện của nông dân văn giang - tỉnh hưng yên '
10 trang 170 0 0 -
Bài giảng Kinh tế học vi mô - Lê Khương Ninh
45 trang 156 0 0 -
13 trang 152 0 0
-
Giáo trình Kinh tế vi mô 1: Phần 1 - PGS. TS Nguyễn Văn Dần
133 trang 134 0 0 -
Tập bài giảng môn học : Kinh tế lượng
83 trang 109 0 0