Danh mục

Kĩ thuật lưu lượng IP/WDM, chương 17

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 156.09 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các bộ định tuyến IP truy nhập mạng WDM thông qua các thiết bị biên WDM (WADM). Kết nối vật lí giữa một giao diện định tuyến IP và một cặp cổng vào/ra WDM sẽ không thay đổi trong suốt quá trình tái cấu hình mức WDM. Lân cận IP được xác định bởi phương pháp các đường đi ngắn nhất được thiết lập giữa các điểm truy nhập. Hai bộ định tuyến IP là lân cận nhau nếu và chỉ nếu một đường đi ngắn nhất được thiết lập giữa bộ định tuyến và điểm truy nhập WDM (các...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kĩ thuật lưu lượng IP/WDM, chương 17 chương 17: Phân giải địa chỉ IP/WDM Các bộ định tuyến IP truy nhập mạng WDM thông qua cácthiết bị biên WDM (WADM). Kết nối vật lí giữa một giao diệnđịnh tuyến IP và một cặp cổng vào/ra WDM sẽ không thay đổitrong suốt quá trình tái cấu hình mức WDM. Lân cận IP được xácđịnh bởi phương pháp các đường đi ngắn nhất được thiết lập giữacác điểm truy nhập. Hai bộ định tuyến IP là lân cận nhau nếu vàchỉ nếu một đường đi ngắn nhất được thiết lập giữa bộ định tuyếnvà điểm truy nhập WDM (các cổng vào/ra) của hai bộ định tuyếnđó. Một đường đi ngắn nhất định tuyến hiện được xác định bởikhối tính toán tuyến đường đi ngắn nhất trong thiết bị biên WDMtương ứng với hai đầu yêu cầu của tầng khách từ cổng sợi quangtruyền dẫn lối ra của WADM lối vào tới cổng truyền dẫn sợi lốivào của WADM lối ra. Mỗi node điều khiển cạnh WDM chịu tráchnhiệm thiết lập một bảng ánh xạ trung gian. Bảng này liên kết mỗicổng vào/ra với các địa chỉ IP của giao diện bộ định tuyến đượcgắn vào để đấu chéo điểm cuối đường đi ngắn nhất với cổng vào/rachính xác. Một mạng WDM được điều khiển GMPLS có địa chỉ IP gánvới mỗi WDM NE, hoặc mỗi giao diện của NE để tính toán tuyếncho các đường đi ngắn nhất. Mặc dù định tuyến trong đối với mộttầng là không thể nhìn thấy đối với tầng khác nhưng mỗi thiết bịbiên WDM phải biết được bộ định tuyến nào kết nối với WADMnào. Để làm được điều này, chúng ta phải có một số thay đổi. Đầutiên, chúng ta phải chạy một BGP giữa các thiết bị biên WDMhoặc xác định một bản tin LSA mờ mới để lợi dụng ưu điểm củaOSPF đang chạy trong tầng WDM. Xu hướng này về cơ bản là mộttiếp cận IP bằng cách mở rộng các giao thức điều khiển IP. Tiếptheo chúng ta có thể xây dựng một máy chủ tập trung hoặc mộtkhối quản lí cho chuyển đổi địa chỉ IP/WDM. Xu hướng này tươngtự như ARP và RARP. Hơn nữa, chúng ta có thể sử dụng cấu hìnhbằng tay hoặc cố định. Các xu hướng như vậy đòi hỏi việc xâydựng và duy trì một bảng ánh xạ địa chỉ IP/WDM bên trong.4.7 Kĩ thuật lưu lượng phản hồi vòng kín. Kĩ thuật lưu lượng phản hồi vòng kín là quá trình kĩ thuật lưulượng tự động trong các mạng IP/WDM đang hoạt động để điềukhiển thích ứng mạng sao cho các tài nguyên mạng có thể được tậndụng một cách tối đa. Quá trình này bao gồm hai chức năng đồngthời:  Đầu tiên nó điều khiển quá trình được điều khiển  Kế đến nó tự điều chỉnh chính nó so với quá trình đó và các thay đổi để có thể cho phép một quá trình điều khiển tốt hơn. Điều khiển thích ứng trong kĩ thuật điều khiển là sự tổng quáthoá của điều khiển phản hồi được thực hiện bằng tay cổ điển trongcác hệ thống mà bộ điều khiển dùng một luật điều khiển chẳng hạnnhư luật điều khiển tuyến tính. Trong điều khiển tuyến tính cổđiển, các hệ số của luật điều khiển tuyến tính là các hằng số theothời gian và đã được ấn định trước. Trong điều khiển thích ứng,một vài hoặc là tất cả các hệ số thay đổi một cách tự động theo cáckết quả đo trực tiếp của các quá trình hoặc các biến đổi nhiễu loạn. Kĩ thuật lưu lượng vòng kín trong các mạng IP/WDM có thểdựa trên các kết quả thống kê lưu lượng và các dự đoán băngthông. Bộ điều khiển bao gồm các công cụ dự đoán băng thông,các thuật toán thiết kế mô hình, và các chính sách lập thời gianbiểu dịch chuyển. Mỗi khi bộ điều khiển cho ra một mô hình mới,quá trình được điều khiển ví dụ như là mạng chẳng hạn sẽ triểnkhai mô hình này. Trước khi một sự thay đổi mô hình khác đượctriển khai, mạng phải triển khai vào thực tế mô hình mới sau đóthông báo trạng thái tuyến nối cho toàn mạng. Vì thế sự triển khaimô hình mạng và hội tụ mạng là rất quan trọng trong việc đảm bảođộ ổn định của mạng. 4.7.1 Quá trình triển khai mô hình mạng Trong mạng IP/WDM chồng lấn, có hai nhiệm vụ đi cùng vớitái cấu hình mô hình IP là tái cấu hình WDM và tái cấu hình IP.Tái cấu hình WDM chỉ thị cho OXC và OADM thiết lập mô hìnhđường đi ngắn nhất mà nó mong muốn và có các thành phần sau:  Định tuyến đường đi ngắn nhất tlr: nếu như các hop chi tiết của một đường đi ngắn nhất là không cho trước trong bộ khởi tạo tái cấu hình thì tuyến từ đầu cuối tới đầu cuối phải tính toán động. Một xu hướng ví dụ cho định tuyến và gán bước sóng là sử dụng thuật toán SPF Dijkstra tuỳ theo các điều kiện ràng buộc. Các ràng buộc này phải được xem xét gồm độ khả dụng bước sóng và tính liên tục bước sóng.  Thiết lập mô hình đường đi ngắn nhất tsetup: nó báo gồm thủ tục báo hiệu phân tán và thiết lập chuyển mạch. Tuỳ theo sự triển khai mà báo hiệu có thể chịu trách nhiệm lựa chọn lambda cục bộ như là trong MPLS. Thiết lập chuyển mạch có thể yêu cầu một hoạt động reset trước khi bổ sung một kết nối mới cho sợi quang.  Hội tụ định tuyến twdm-các: nó thể hiện thời gian cho cơ sở thông tin định tuyến WDM tái ...

Tài liệu được xem nhiều: