KÍ ỨC TRUYỀN THỐNG HIỆN ĐẠI
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 122.60 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tôi thực sự vui mừng được chia vui dự buổi khai mạc phòng tranh mĩ thuật của Nguyễn Xuân Tiệp. Cuộc hội ngộ thật đông vui, chan hòa, đầy ý nghĩa của những người làm nghệ thuật. Chỉ từng ấy thôi, qua không khí khai mạc cũng đủ nói lên tình yêu nghệ thuật mà họa sĩ đã lao động hết mình dành cho công chúng yêu cái đẹp đích thực. Với tư cách là khách được mời, lại là người đồng nghiệp đã từng cộng sự cùng nhiệm sở một thời với Tiệp, tôi thấy cần phải bộc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
KÍ ỨC TRUYỀN THỐNG HIỆN ĐẠI KÍ ỨC TRUYỀN THỐNG HIỆN ĐẠI Tôi thực sự vui mừng được chia vui dự buổi khai mạc phòng tranh mĩ thuật của Nguyễn Xuân Tiệp. Cuộc hội ngộ thật đông vui, chan hòa, đầy ý nghĩa của những người làm nghệ thuật. Chỉ từng ấy thôi, qua không khí khai mạc cũng đủ nói lên tình yêu nghệ thuật mà họa sĩ đã lao động hết mình dành cho công chúng yêu cái đẹp đích thực. Với tư cách là khách được mời, lại là người đồng nghiệp đã từng cộng sự cùng nhiệm sở một thời với Tiệp, tôi thấy cần phải bộc lộ ít dòng cảm xúc của mình để chia vui cùng cuộc trưng bày mà vẻ đẹp của nó thực sự đã có sức thuyết phục tôi. Nếu hiểu theo nghĩa quy phạm, thì đây là phòng tranh có xu hướng Nghệ thuật biểu hiện. Khá rõ nét qua bút pháp của tác giả: Đó là dạng nghệ thuật mà trong đó những tư tưởng có tính truyền thống theo chủ nghĩa tự nhiên đã bị tác giả gạt bỏ, để ưu tiên cho cách dùng hình thể cách điệu, thậm chí hơi thái quá; hoặc cách dùng mầu biểu hiện được cảm xúc khá rõ của họa sĩ. Đó là định nghĩa của tự điển mĩ thuật. Đề tài trong tranh của Nguyễn Xuân Tiệp là những con giáp, người gẩy đàn, tấu nhạc, ca múa... rất gần với cảnh thần tiên của những giấc mơ, đượm màu huyền thoại - tâm linh. Phải chăng đó là những ký ức tuổi thơ và cũng là những hoài niệm của một con người đã từng được nuôi dưỡng dưới mái nhà văn hóa mà thân phụ ông vốn là một nhạc sĩ - họa sĩ - thi nhân một thời? Cái đẹp của những bức tranh “Mực Tầu - giấy Dó” - hoặc nền điệp - giấy dó, riêng tính dịu hiền, mềm xốp, dễ thấm, dễ loang, đã tạo cho tranh những cung bậc trầm lắng, giản dị mà ngân nga sâu thẳm, không cùng. Phải chăng chính là chất huyền thoại phương Đông mà vô tình hay hữu ý, ông đã tìm thấy trong tư tưởng triết học Phật - Thiền - thứ triết học vô biên, vô lượng, có cội nguồn từ chữ Tâm, chữ Định? Và cả tính mơ mộng - vô vi - thoát tục, đầy chất Đạo của Lão Tử, Trang Tử nữa? Tư duy văn hóa phương Đông không giống với tư duy văn hóa phương Tây. Các họa sĩ của xứ sở Bạch dương - tuyết trắng luôn thèm được hưởng ánh sáng ấm nắng của xứ sở mặt trời. Họ trọng chân lý, luôn đi tìm tuyệt đối; mỗi người sống với thế giới cá nhân, rất riêng của mình, nên họ luôn cảm thấy cô đơn trong đời sống tinh thần tình cảm, tuy họ rất dư thừa vật chất: “Những bức tranh của tôi không muốn tìm tòi cái gì, cũng không muốn khẳng định cái gì. Đó là duy nhất để tôi có thể giữ lại những cảm xúc không sao diễn tả nổi bằng cách khác. Tôi vẽ để cảm thấy khỏi cô đơn ... “. Đó là tâm sự của Roger Bissière (1886 - 1964), họa sĩ Pháp, giáo sư Học viện Mỹ thuật Ranson, bạn của danh họa Georges Braque (1882 - 1963), ông tổ của chủ nghĩa lập thể với Pablo Picasso (1881 - 1978). Bissière được xã hội Pháp xem như một nhân vật tiêu biểu của “Truyền thống Pháp”, có ảnh hưởng sâu rộng trong giới thanh niên (ông cũng đã từng làm nghệ thuật sắp đặt và trang trí một thời - TT). Trở lại với những bức tranh giấy dó của Nguyễn Xuân Tiệp. Với tôi, đó là những tác phẩm đẹp theo cả hai nghĩa: Truyền thống và Hiện đại. Truyền thống đây không phải chỉ ở nơi ông ưa dùng chất liệu giấy dó - điệp, dân tộc - dân gian bản địa, mà hơn hết ông có tư duy văn hóa dân tộc qua phương pháp nghệ thuật của mình. Đó là thứ triết lý Tình - Lý đã thấm đẫm trong con người nghệ sĩ. Giống như chiếc đàn bầu một dây - “huyền cầm” - mà diễn tả được cả một thế giới âm thanh vô lượng - vô biên. Đó cũng là tính ước lệ, tính khái quát hóa đặc thù của những mảng mầu loang đậm nhạt, tràn trên mặt phẳng của những bức tranh dù mặt thoáng, hay chật chội, mà vẫn nói được chiều sâu, tính vô cực của cái đẹp. Vì thế mà người có trình độ thì lĩnh hội được ở tầm cao. Người trung bình, thì nhận thức được cái đẹp vừa với mình. Hiện đại, ở nơi những bức tranh biết “phá cách”, biết bố cục không bị gò trong các luật lệ trường quy - kinh điển. Vì thế người ở châu lục nào, dù xa xôi đến mấy, được xem tranh ông cũng lĩnh hội được cái đẹp, cái sâu xa ý nhị “đại đồng”, không ranh giới. “ . Nghệ thuật không phải là vẽ lại các đồ vật, con người mà họa sĩ thấy. Nghệ thuật phải là sáng tạo nên các đồ vật, con người không thấy được. “ (Paul Klee). Phải chăng phòng tranh “Mực Tầu - Giấy dó” của Nguyễn Xuân Tiệp đã gặp gỡ và hội đủ những tiêu chuẩn cần và đủ của người nghệ sĩ, như ý tưởng về cái đẹp sáng tạo mà danh họa Paul Klee đã đúc kết thật ngắn gọn và súc tích? Trần Thức ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
KÍ ỨC TRUYỀN THỐNG HIỆN ĐẠI KÍ ỨC TRUYỀN THỐNG HIỆN ĐẠI Tôi thực sự vui mừng được chia vui dự buổi khai mạc phòng tranh mĩ thuật của Nguyễn Xuân Tiệp. Cuộc hội ngộ thật đông vui, chan hòa, đầy ý nghĩa của những người làm nghệ thuật. Chỉ từng ấy thôi, qua không khí khai mạc cũng đủ nói lên tình yêu nghệ thuật mà họa sĩ đã lao động hết mình dành cho công chúng yêu cái đẹp đích thực. Với tư cách là khách được mời, lại là người đồng nghiệp đã từng cộng sự cùng nhiệm sở một thời với Tiệp, tôi thấy cần phải bộc lộ ít dòng cảm xúc của mình để chia vui cùng cuộc trưng bày mà vẻ đẹp của nó thực sự đã có sức thuyết phục tôi. Nếu hiểu theo nghĩa quy phạm, thì đây là phòng tranh có xu hướng Nghệ thuật biểu hiện. Khá rõ nét qua bút pháp của tác giả: Đó là dạng nghệ thuật mà trong đó những tư tưởng có tính truyền thống theo chủ nghĩa tự nhiên đã bị tác giả gạt bỏ, để ưu tiên cho cách dùng hình thể cách điệu, thậm chí hơi thái quá; hoặc cách dùng mầu biểu hiện được cảm xúc khá rõ của họa sĩ. Đó là định nghĩa của tự điển mĩ thuật. Đề tài trong tranh của Nguyễn Xuân Tiệp là những con giáp, người gẩy đàn, tấu nhạc, ca múa... rất gần với cảnh thần tiên của những giấc mơ, đượm màu huyền thoại - tâm linh. Phải chăng đó là những ký ức tuổi thơ và cũng là những hoài niệm của một con người đã từng được nuôi dưỡng dưới mái nhà văn hóa mà thân phụ ông vốn là một nhạc sĩ - họa sĩ - thi nhân một thời? Cái đẹp của những bức tranh “Mực Tầu - giấy Dó” - hoặc nền điệp - giấy dó, riêng tính dịu hiền, mềm xốp, dễ thấm, dễ loang, đã tạo cho tranh những cung bậc trầm lắng, giản dị mà ngân nga sâu thẳm, không cùng. Phải chăng chính là chất huyền thoại phương Đông mà vô tình hay hữu ý, ông đã tìm thấy trong tư tưởng triết học Phật - Thiền - thứ triết học vô biên, vô lượng, có cội nguồn từ chữ Tâm, chữ Định? Và cả tính mơ mộng - vô vi - thoát tục, đầy chất Đạo của Lão Tử, Trang Tử nữa? Tư duy văn hóa phương Đông không giống với tư duy văn hóa phương Tây. Các họa sĩ của xứ sở Bạch dương - tuyết trắng luôn thèm được hưởng ánh sáng ấm nắng của xứ sở mặt trời. Họ trọng chân lý, luôn đi tìm tuyệt đối; mỗi người sống với thế giới cá nhân, rất riêng của mình, nên họ luôn cảm thấy cô đơn trong đời sống tinh thần tình cảm, tuy họ rất dư thừa vật chất: “Những bức tranh của tôi không muốn tìm tòi cái gì, cũng không muốn khẳng định cái gì. Đó là duy nhất để tôi có thể giữ lại những cảm xúc không sao diễn tả nổi bằng cách khác. Tôi vẽ để cảm thấy khỏi cô đơn ... “. Đó là tâm sự của Roger Bissière (1886 - 1964), họa sĩ Pháp, giáo sư Học viện Mỹ thuật Ranson, bạn của danh họa Georges Braque (1882 - 1963), ông tổ của chủ nghĩa lập thể với Pablo Picasso (1881 - 1978). Bissière được xã hội Pháp xem như một nhân vật tiêu biểu của “Truyền thống Pháp”, có ảnh hưởng sâu rộng trong giới thanh niên (ông cũng đã từng làm nghệ thuật sắp đặt và trang trí một thời - TT). Trở lại với những bức tranh giấy dó của Nguyễn Xuân Tiệp. Với tôi, đó là những tác phẩm đẹp theo cả hai nghĩa: Truyền thống và Hiện đại. Truyền thống đây không phải chỉ ở nơi ông ưa dùng chất liệu giấy dó - điệp, dân tộc - dân gian bản địa, mà hơn hết ông có tư duy văn hóa dân tộc qua phương pháp nghệ thuật của mình. Đó là thứ triết lý Tình - Lý đã thấm đẫm trong con người nghệ sĩ. Giống như chiếc đàn bầu một dây - “huyền cầm” - mà diễn tả được cả một thế giới âm thanh vô lượng - vô biên. Đó cũng là tính ước lệ, tính khái quát hóa đặc thù của những mảng mầu loang đậm nhạt, tràn trên mặt phẳng của những bức tranh dù mặt thoáng, hay chật chội, mà vẫn nói được chiều sâu, tính vô cực của cái đẹp. Vì thế mà người có trình độ thì lĩnh hội được ở tầm cao. Người trung bình, thì nhận thức được cái đẹp vừa với mình. Hiện đại, ở nơi những bức tranh biết “phá cách”, biết bố cục không bị gò trong các luật lệ trường quy - kinh điển. Vì thế người ở châu lục nào, dù xa xôi đến mấy, được xem tranh ông cũng lĩnh hội được cái đẹp, cái sâu xa ý nhị “đại đồng”, không ranh giới. “ . Nghệ thuật không phải là vẽ lại các đồ vật, con người mà họa sĩ thấy. Nghệ thuật phải là sáng tạo nên các đồ vật, con người không thấy được. “ (Paul Klee). Phải chăng phòng tranh “Mực Tầu - Giấy dó” của Nguyễn Xuân Tiệp đã gặp gỡ và hội đủ những tiêu chuẩn cần và đủ của người nghệ sĩ, như ý tưởng về cái đẹp sáng tạo mà danh họa Paul Klee đã đúc kết thật ngắn gọn và súc tích? Trần Thức ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
mỹ thuật truyền thống mỹ thuật hiện đại họa sỹ việt nam nghiên cứu văn hóa kiến thức mỹ thuật trường phái nghệ thuậtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 340 0 0 -
Thể thơ và nghệ thuật sử dụng câu chữ trong ca dao - dân ca xứ Nghệ
8 trang 304 0 0 -
50 năm ngày Marilyn Monroe qua đời: Đẹp đến đau lòng
11 trang 141 0 0 -
6 trang 119 0 0
-
6 trang 84 0 0
-
7 trang 83 0 0
-
Văn hóa học: Culturology và Cultural studies
14 trang 66 0 0 -
Đào tạo ngành Kinh doanh xuất bản phẩm hướng tới sự hội tụ và phát triển bền vững
10 trang 64 0 0 -
Văn hóa phi vật thể - linh hồn của di sản Tây Nguyên
3 trang 61 0 0 -
Phong cách thể hiện ca khúc dân gian đương đại
7 trang 59 2 0