Danh mục

Kịch - Vũ Như Tô

Số trang: 16      Loại file: doc      Dung lượng: 127.00 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cách đây vừa tròn sáu mươi năm, đúng vào dịp kỷ niệm Tết Độc lập lần thứ hai (tháng 9/1946), vở kịch "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy Tưởng được xuất bản. Với tất cả sự khiêm tốn của mình, tác giả đã không kìm được mình ghi trong nhật ký: "Vũ Như Tô đã xuất bản. Khá bằng lòng. Kịch vĩ đại”. Nhưng đồng thời ông cũng chua thêm một lời bình, như ông vẫn thường có cách nhìn khắt khe về các tác phẩm của mình: “Chỉ tiếc rằng nó cổ”......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kịch - Vũ Như Tô 'Vũ Như Tô' ­ một chặng đường trường (phần 1) Nguyễn Huy Thắng Cách đây vừa tròn sáu mươi năm, đúng vào dịp kỷ niệm Tết Độc lập lần thứ hai (tháng 9/1946),  vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng được xuất bản. Với tất cả sự khiêm tốn của mình, tác  giả đã không kìm được mình ghi trong nhật ký: Vũ Như Tô đã xuất bản. Khá bằng lòng. Kịch vĩ  đại”.  Nhưng đồng thời ông cũng chua thêm một lời bình, như ông vẫn thường có cách nhìn khắt khe về  các tác phẩm của mình: “Chỉ tiếc rằng nó cổ”...  Cái mà Nguyễn Huy Tưởng gọi là “khá bằng lòng” ấy, cũng có thể dùng để nói về một vở kịch  khác của ông ra trong cùng năm. Đó là kịch Bắc Sơn mà đến nay cũng vừa tròn sáu mươi năm  tuổi. Xin được dừng lại đôi chút để nói thêm về tác phẩm này. Với hai đêm diễn đầu tiên vào đầu  tháng 4/1946 trên sân khấu Nhà hát lớn Hà Nội, vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng đã thu  được thành công vang dội. Các báo đương thời nhất trí đánh giá: “Bắc Sơn xứng đáng là vở kịch  cách mạng thành công nhất từ trước tới nay”, “Bắc Sơn là một vở kịch cách mạng mà không có  tính cách tuyên truyền”, “Bắc Sơn mở ra một nền kịch mới”... Dễ hiểu là thành công này của  Nguyễn Huy Tưởng ­ mà cũng là thành quả chung của nền văn nghệ mới ­ cần được nhanh  chóng phát huy. Như một hiệu ứng lan truyền, khắp nơi người ta diễn kịch dựng kịch Bắc Sơn, từ  Văn Giang đến Nam Định, từ Vinh đến Hội An... Đặc biệt, tháng 7/1946, nghĩa là chỉ ba tháng  sau ngày công diễn, Bắc Sơn được Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản. Đó là một ấn phẩm có thể  nói là đáng mơ ước với bất cứ tác giả nào: ngoài phần kịch bản của tác giả, ấn phẩm còn kèm  theo lời nói đầu của Nguyễn Đình Thi, phụ bản màu của Trần Đình Thọ, bản nhạc Bắc Sơn của  Văn Cao (được dùng làm nhạc nền cho vở diễn), ấn phẩm cũng trích đăng hơn chục trang các bài  báo phê bình kịch Bắc Sơn mà âm hưởng chung là khẳng định giá trị tư tưởng và nghệ thuật của  tác phẩm. Tất cả được in trên một thứ giấy trơn nhẵn, bìa dày, khổ sách cao toát lên vẻ sang  trọng, trang nhã. Ngoài các bản thường, còn có một số bản được đánh số kèm theo chữ ký tác  giả... Trở lại với kịch Vũ Như Tô, cũng là một ấn phẩm khá đẹp, ít nhất là so với lúc bấy giờ. Cuốn sách  được in trên giấy lụa, bìa dày, khổ rộng ngang trông khá là bề thế. Ngoài các bản thường, còn có  thêm một số bản in bằng giấy vêlanh mịn màu kem, cũng được đánh số kèm chữ ký tác giả. Tuy  nhiên, điều đáng lưu ý hơn cả ở ấn phẩm này, theo chúng tôi lại là một chi tiết không thuộc về  hình thức, mà là ở cách đề tên tác giả ở ngoài bìa. Song song với ba chữ Nguyễn Huy Tưởng, là  một hàng chữ kèm theo: Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam. Chúng ta nên hiểu về điều này như thế nào? Khác với Bắc Sơn, Vũ Như Tô không phải do Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam xuất bản. Vở kịch  lịch sử này của Nguyễn Huy Tưởng được xuất bản trong Tủ sách kịch Hoa Lư, một tủ sách  chuyên xuất bản các tác phẩm kịch của các tác giả thuộc mọi khuynh hướng. Ta có thể thấy được  điều này qua mấy tên sách sắp ra trong cùng tủ sách, được quảng cáo ở bìa 4 cuốn kịch Vũ Như  Tô: đó là các vở Thái Nguyên của Hoàng Việt Sinh, Lam Sơn họp mặt, kịch thơ của Nguyễn Xuân  Trâm, Nước lụt, kịch của nhà văn Trung Quốc Điền Hán, do Thế Lữ dịch. Bên trong, ở trang cuối  sách khép lại vở kịch có đề hàng chữ: “Tác giả giữ bản quyền”. Nghĩa là, tác giả có toàn quyền  quyết định để tên mình như thế nào theo ý muốn, và việc ghi danh mình song song với Hội Văn  hóa cứu quốc rõ ràng là ý nguyện của Nguyễn Huy Tưởng. Vậy tại sao Nguyễn Huy Tưởng lại quyết định như thế? Phải chăng ông làm thế vì lợi ích cá nhân mình? Phải chăng ông muốn mượn danh nghĩa Hội  Văn hóa cứu quốc, cơ quan của đoàn thể để khẳng định vị thế chính trị của mình? Hay phải  chăng ông muốn mượn tiếng Hội hòng làm tăng uy tín cho tác phẩm của mình? Theo chúng tôi  cả ba giả định trên đều không phải. Những ai từng biết Nguyễn Huy Tưởng đều rõ một điều rằng,  ông là người rất coi trọng tư cách nhà văn của mình, một người như ông chắc chắn không bao giờ  mượn bất cứ danh nghĩa gì, ngoài văn học, để khẳng định chân giá trị của mình. Vả lại, ở vào thời  điểm lúc bấy giờ, danh nghĩa Hội Văn hóa cứu quốc chưa hẳn đã là hay, là thuyết phục đối với  một bộ phận không nhỏ văn nghệ sĩ có xu hướng chỉ coi trọng các sáng tác tự do. Thậm chí  “dòng” văn chương của đoàn thể còn bị coi là một thứ văn chương mặt trận. Nhật ký của ông có  đoạn tự nói về kịch Bắc Sơn như sau: “Có tiếng, nhưng có vẻ như là nhờ mặt trận” (17/7/1946).  Còn đây là lời của nhà báo Phạm Ngọc Khuê mà ông ghi lại với đầy chua chát: “Phạm Ngọc  Khuê nói một thằng bị giam muốn cho nó chết chỉ [việc] cho đọc báo mặt trận” (24/5/1946). Vậy thì Nguyễn Huy Tưởng để tên mình đi liền với Hội Văn hóa cứu quốc để làm gì? Câu trả lời duy nhất chỉ có thể là: Với Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô và Văn hóa cứu quốc là  một, theo kiểu không có cái này thì cũng không có cái kia. Hay nói cụ thể hơn, quá trình ông viết  Vũ Như Tô cũng chính là quá trình ông tham gia hoạt động Văn h ...

Tài liệu được xem nhiều: