Danh mục

Kiếm

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 237.74 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Kiếm hay gươm là một loại vũ khí lạnh cấu tạo từ một thanh kim loại dài được mài bén dùng để đâm, chém trong tác chiến. Dài hơn dao, hẹp, nhẹ và mỏng hơn đao, kiếm được sử dụng trong nhiều cuộc chiến trên khắp thế giới từ thời thượng cổ cho tới thế chiến II. Sau phát minh của súng, kiếm dần dần mất hiệu lực trong chiến trường nhưng vẫn được dùng làm biểu tượng của gia tộc, quốc gia, quân đội (thí dụ điển hình là sĩ quan kỵ binh trong Nội chiến Mỹ thường...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiếm KiếmBảo kiếm Nguyễn triều. Thi đấu kiếmKiếm hay gươm là một loại vũ khí lạnh cấu tạo từ một thanh kim loại dài đượcmài bén dùng để đâm, chém trong tác chiến. Dài hơn dao, hẹp, nhẹ và mỏng hơnđao, kiếm được sử dụng trong nhiều cuộc chiến trên khắp thế giới từ thời thượngcổ cho tới thế chiến II.Sau phát minh của súng, kiếm dần dần mất hiệu lực trong chiến trường nhưng vẫnđược dùng làm biểu tượng của gia tộc, quốc gia, quân đội (thí dụ điển hình là sĩquan kỵ binh trong Nội chiến Mỹ thường dùng kiếm đi trước để chỉ huy binh línhcó súng theo sau).Một số kiếm hiện diện trong các huyền thoại, truyền thuyết nh ư thanh kiếm Thuậnthiên của Lê Lợi, thanh Kusanagi của Jimmu Tenno (thần thoại Nhật Bản), vàExcalibur của vua Arthur (Anh Quốc).Kiếm cũng được dùng để thi đấu như một môn thể thao.Cấu tạo của kiếm khá đơn giản - một thanh kim loại dài, có một hoặc hai cạnh sắc,chuôi bằng kim loại hoặc gỗ, phần lớn có quai bảo vệ cho bàn tay của kiếm sĩ.[sửa] Phân loạiCó nhiều loại kiếm, như kiếm 3 cạnh, liễu diệp kiếm (loại kiếm rất mỏng, nhẹ vàdẻo dai, có thể cuốn tròn quanh người), kiếm lưỡi tròn, kiếm 2 lưỡi còn gọi làkiếm lá, kiếm 1 lưỡi (thường gọi là đao) v.v.Mỗi dân tộc lại có một hoặc vài kiểu kiếm khác nhau: kiếm Claymore củaScotland, kiếm Katana, Tachi của Nhật Bản v.v., theo đó cách sử dụng kiếm cũngkhác nhau.[sửa] Trung QuốcKiếm Trung QuốcTrung Quốc có một nền võ thuật lâu đời và vững mạnh, kiếm pháp cũng khôngnằm ngoài quy luật này. Kiếm Trung Quốc có từ thời cổ đại khi con người tìm rađồng và sắt. Trải qua suốt 6000 năm lịch sử, kiếm Trung Quốc dần hoàn thiện vàđa dạng hơn, đặc điểm chung là cấu tạo bởi một thanh kim loại (thường là thép)dài, sắc hai lưỡi, nhọn ở đầu. Thời Cổ Trung đại, Kiếm là loại vũ khí được trang bịkhi chiến đấu và phòng thân. Qua mỗi thời kì, kiếm Trung Quốc có những nét đặctrưng riêng. Kiếm thời nhà Minh lưu truyền đến nay, sử dụng trong luyện tập võthuật và làm lễ trong Đạo Giáo. Từ thời Tống, Trung Quốc xuất hiện nhiều mônphái sử dụng kiếm như: Toàn Chân Giáo, Võ Đang, Nga My, Ngũ Nhạc KiếmPhái, môn sinh Thiếu Lâm cũng được luyện tập kiếm pháp.Kiếm Trung Quốc là một vũ khí thanh mảnh, sử dụng một tay một kiếm (đơnkiếm), hai tay hai kiếm (song kiếm). Loại to, nặng nhưng gọi là trọng kiếm khôngsắc bằng kiếm thường, sát thương chủ yếu bằng sức nặng để cắt.[sửa] Thời Xuân ThuNước Ngô có hai thanh kiếm Can Tương và Mạc Gia nổi tiếng chặt đá, do hai vợchồng Can Tương và Mạc Gia đúc nên, được liệt vào hàng danh kiếm.Cùng học một thầy với hai vợ chồng Can Tương, Mạc Giả có Âu Giả Tử nướcViệt, đúc được 5 thanh kiếm, được vua nước Việt dâng cho vua Ngô Thọ Mộng 3thanh: 1. Ngư trường là lưỡi gươm trủy thủ mà Chuyên Chư đâm Vương Liêu 2. Bản sinh được vua Ngô Hạp Lư chôn theo con gái Thắng Ngọc 3. Trạm lư bỏ vua Ngô xuất hiện tại phòng vua Sở Chiêu vương[sửa] Nhật Bản Bài chi tiết: Gươm NhậtĐặc trưng là Katana hay còn gọi là Kiếm Nhật, là vũ khí đặc trưng của ngườiNhật Bản. Kiếm Nhật là một loài trường kiếm, có lưỡi dài và cán dài, cán kiếmthường được cầm bằng hai tay khi chiến đấu. Kiếm chỉ có một lưỡi, sắc bén, cósức sát thương cao. Kiếm thường được đeo ở thắt lưng và mũi kiếm xoay lên trên.Theo một số nhà khoa học, sở dĩ kiếm katana đạt được độ cứng và bền là vì khiluyện kiếm, các nghệ nhân thường cho thêm oxít titan[1] vào trong hợp kim. Điềunày làm cho kiếm có độ sắc bén nhất, ngoài ra còn giúp chống oxy hóa, khiến chothanh kiếm luôn sáng bóng.[2][sửa] Việt NamBộ sưu tập đao Việt Nam thế kỷ 18-19 xuất xứ Bắc bộ-bảo tàng lịch sử quân sựThời cổ đại, lưỡi kiếm Việt Nam dài và thẳng, rộng bản, có 2 cạnh sắc, dùng đểchém lẫn đâm. Về hình dạng, kiếm Đông Sơn tương tự như kiếm tìm thấy ở TrungQuốc, Nhật Bản. Hoa văn trang trí trên chuôi và đốc kiếm rất đa dạng, có thể làhình chiến binh, hình người đàn bà hay các con vật như gà, voi... Những kiếmmang tính chất nghi lễ của người tầng lớp trên có thể gắn cả nhạc, chuông.Thời Trung, Cận đại, người Việt sử dụng cả kiếm thẳng 2 cạnh sắc, chuôi cầm 1tay như của Trung Quốc lẫn loại trường kiếm lưỡi cong, 1 cạnh sắc, chuôi dài vàphải cầm cả 2 tay (vẫn thường được biết đến là đao), mang ảnh hưởng sâu sắc củavăn hóa Khơ me, Chămpa. Ngày nay, loại trường đao cong này vẫn có thể nhìnthấy trên những bức tượng võ sĩ ở các lăng tẩm của giới quý tộc thời Lê, Mạc,Trịnh ở Thanh Hóa, Bắc Giang, trong bảo tàng Lịch sử quân sự Hà Nội (kiếm TâySơn) hay trong các lễ hội dân gian như hội đền Đô, Bắc Ninh. Một số lượng lớnđao kiếm cổ hiện nay đang nằm trong các bộ sưu tập tư nhân.Về danh kiếm thì Việt Nam nổi lên có thanh Thuận Thiên kiếm của Lê Lợi, gắnvới sự tích trả gươm và rùa thần Kim Quy ...

Tài liệu được xem nhiều: