Kiếm Câu Tiễn hay Kiếm của Việt vương Câu Tiễn (chữ Hán phồn thể: 越王勾踐劍; chữ Hán giản thể: 越王勾践剑; Hán Việt: Việt vương Câu Tiễn kiếm) là một đồ tạo tác được tìm thấy trong cuộc khai quật khảo cổ năm 1965 tại Hồ Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là một thanh kiếm được xác định niên đại vào thời cuối Xuân Thu thuộc quyền sở hữu của Câu Tiễn, vua nước Việt. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiếm Câu Tiễn Kiếm Câu Tiễn Kiếm Câu TiễnKiếm Câu Tiễn hay Kiếm của Việt vương Câu Tiễn (chữ Hán phồn thể:越王勾踐劍; chữ Hán giản thể: 越王勾践剑; Hán Việt: Việt vương Câu Tiễnkiếm) là một đồ tạo tác được tìm thấy trong cuộc khai quật khảo cổ năm 1965 tạiHồ Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đây là một thanh kiếm được xác địnhniên đại vào thời cuối Xuân Thu thuộc quyền sở hữu của Câu Tiễn, vua nước Việt.Ngoài ý nghĩa quan trọng về mặt lịch sử, Kiếm Câu Tiễn còn nổi tiếng vì độ sắcbén và sáng bóng dù đã có hơn 2000 năm tuổi, hiện cổ vật này được trưng bày tạiBảo tàng Hồ Bắc, Trung Quốc.[sửa] Lịch sử khám pháPhần chữ cổ: 越王自作 - Việt vương tự tác.Năm 1965 trong một cuộc khai quật khảo cổ tiến hành tại công trường xây dựngcông dẫn nước thứ hai cho hồ chứa nước sông Chương ở Kinh Châu, Hồ Bắc,người ta đã phát hiện ra ở Giang Lăng trên năm mươi ngôi mộ cổ có niên đại thờinước Sở. Kéo dài từ giữa tháng 10 năm 1965 tới tháng 1 năm 1966, cuộc khảo cổđã thu được trên 2000 đồ tạo tác trong đó đáng chú ý nhất là một thanh kiếm bằngđồng. Thanh kiếm này được tìm thấy vào tháng 12 năm 1965 tại một ngôi mộ cáchDĩnh Nam, kinh đô cũ của nước Sở, khoảng 7 km, nó được đặt trong bao kiếmbằng gỗ sơn mài cạnh một bộ xương người. Sau khi rút kiếm ra khỏi bao, người tathấy rằng thanh kiếm này gần như vẫn còn sắc bén và sáng bóng bất chấp việc nónằm trong một ngôi mộ ngập bởi nước ngầm đã trên 2000 năm.[1] Khi thử nghiệmđộ sắc bén của thanh kiếm, các nhà khảo cổ thấy rằng nó vẫn dễ dàng cắt đứt mộtchồng chừng hai chục tờ giấy.Trên một mặt của lưỡi kiếm, người ta tìm thấy hai dòng chữ cổ. Tổng cộng có 8chữ được viết theo lối điểu trùng văn (鸟虫文) là thứ chữ chuyên dùng đểkhắc triện thư và rất khó đọc. Ban đầu người ta đã giải mã được 6 chữ là 越王(Việt vương - Vua nước Việt) và 自作用剑 (tự tác dụng kiếm - kiếm tựlàm để dùng). Hai chữ còn lại được cho là tên của một trong các vua nước Việt,sau trên hai tháng tranh luận gay gắt với sự tham gia của nhiều học giả danh tiếngnhư Quách Mạt Nhược, người ta đã đi tới kết luận rằng đây chính là tên của CâuTiễn (496 TCN - 465 TCN), vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử 200 năm của nướcViệt. Và như vậy, 8 chữ được khắc trên lưỡi kiếm là 越王勾践 自作用劍 (Việtvương Câu Tiễn tự tác dụng kiếm).[sửa] Mô tảKiếm Câu Tiễn có chiều dài 55,6 cm trong đó phần cán kiếm dài 10 cm, lưỡi kiếmrộng 5 cm có họa tiết là các hình thoi lặp lại trên cả hai mặt. Cuộc phân tích vềthành phần của kiếm do Đại học Phục Đán và Viện Hàn lâm Khoa học TrungQuốc thực hiện đã cho kết quả như sau:Phần phân tích Đồng Thiếc Chì Sắt Lưu huỳnh AsenLưỡi kiếm có dấu vết 80,3 18,8 0,4 0,4 -Mẫu vàng có dấu vết 83,1 15,2 0,8 0,8 -Mẫu tối 73,9 22,8 1,4 1,8 có dấu vết có dấu vếtMẫu tối nhất có dấu vết 68,2 29,1 0,9 1,2 0,5Cạnh kiếm có dấu vết 57,3 29,6 8,7 3,4 0,9Mũi kiếm có dấu vết 41,5 42,6 6,1 3,7 5,9Như vậy phần thân của lưỡi kiếm có thành phần chủ yếu là đồng để kiếm có độmềm dẻo và không bị phá hủy, phần cạnh kiếm có tỉ lệ thiếc cao hơn để đảm bảođộ sắc và cứng, thành phần lưu huỳnh giúp kiếm giữ được độ sáng bóng. Ngoài racác nhà nghiên cứu cũng cho rằng việc thanh kiếm có một bao kiếm tốt, gần nhưkín khí đã giúp nó giữ được trạng thái bảo quản tốt.