Kiểm định các nhân tố vĩ mô tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 476.10 KB
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này phân tích tác động của các biến số kinh tế vĩ mô bao gồm cung tiền (MS), lãi suất cho vay (ITR), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tỷ giá hối đoái (EXR) và giá trị sản lượng công nghiệp (IP) đến thị trường chứng khoán Việt Nam (VNINDEX) trong giai đoạn 2001 đến 2013.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiểm định các nhân tố vĩ mô tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 70 - 78 Trường Đại học An Giang KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ VĨ MÔ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Huỳnh Thị Cẩm Hà1, Lê Thị Lanh2, Lê Thị Hồng Minh3 và Hoàng Thị Phương Anh4 1 ThS. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh PGS. TS. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 3 ThS. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 4 ThS. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 2 Thông tin chung: Ngày nhận bài: 19/05/14 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 08/06/14 Ngày chấp nhận đăng: 30/07/14 Title: Testing the effects of macroeconomic variables on the Vietnamese stock market Từ khóa: VNINDEX, biến số kinh tế vĩ mô, VECM, phân rã phương sai, IRF Keywords: VNINDEX, macroeconomic variables, VECM, variance decomposition, IRF ABSTRACT This paper analyzed the effect of macroeconomic variables including money supply (MS), lending interest rates (ITR), consumer price index (CPI), exchange rate (EXR) and industrial production (IP) on the Vietnamese stock market (VNINDEX) in the period from 2001 to 2013. Due to a vector co-integration between variables, we use ECM model to determine the relationship between the variables in short-run and VECM model to examine the long-run equilibrium relationship. In the long-run, MS and IP show negative and significant effect on VNINDEX, while ITR and CPI have positive and significant effect on VNINDEX. If macroeconomic shocks occur, VNINDEX will adjust to equilibrium position quite slowly. TÓM TẮT Nghiên cứu này phân tích tác động của các biến số kinh tế vĩ mô bao gồm cung tiền (MS), lãi suất cho vay (ITR), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tỷ giá hối đoái (EXR) và giá trị sản lượng công nghiệp (IP) đến thị trường chứng khoán Việt Nam (VNINDEX) trong giai đoạn 2001 đến 2013. Vì giữa các biến có tồn tại một vector đồng liên kết nên nghiên cứu sử dụng mô hình ECM để xác định mối quan hệ giữa các biến trong ngắn hạn và VECM nhằm kiểm tra mối quan hệ cân bằng dài hạn. Kết quả cho thấy trong dài hạn, MS và IP có mối quan hệ cùng chiều với VNINDEX, ITR và CPI có mối quan hệ ngược chiều với VNINDEX. Trường hợp khi xảy ra cú sốc các biến số vĩ mô thì quá trình VNINDEX điều chỉnh về mức cân bằng là khá chậm. chịu tác động bởi sự điều tiết chính sách chính phủ, các biến số kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. 1. GIỚI THIỆU TTCK (thị trường chứng khoán) là một trong những kênh đo lường sự phát triển kinh tế của một quốc gia và được xem là hiệu quả khi giá chứng khoán (CK) được điều chỉnh nhanh chóng khi xuất hiện thông tin mới. Hiệu quả của TTCK được xem là hiệu quả về mặt thông tin. TTCK Việt Nam (VN) chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2000, gần 14 năm cũng trải qua biết bao thăng trầm và TTCK biến động không những do yếu tố tâm lý khi đưa ra quyết định đầu tư mà còn Mục tiêu của bài viết nhằm đánh giá tác động của các biến số kinh tế vĩ mô lên TTCK VN và xem liệu các biến số này có thể dùng để dự báo biến động của TTCK VN hay không thông qua kiểm định đồng liên kết trong mô hình, kiểm định mô hình hiệu chỉnh sai số (VECM) và Granger Causality. Đồng thời bài viết cũng mở rộng thêm hướng nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của các cú sốc biến vĩ mô lên TTCK VN bằng phân tích phân rã phương sai và hàm phản ứng IRF. Các câu hỏi 70 Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 70 - 78 Trường Đại học An Giang nghiên cứu gồm: (1) Có tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa các biến số vĩ mô và TTCK VN hay không? và (2) Phản ứng của TTCK VN trước các cú sốc của các biến số kinh tế vĩ mô như thế nào? 2. TỔNG QUAN TRƯỚC ĐÂY CÁC NGHIÊN gia, chênh lệch giữa lợi suất các loại trái phiếu và lợi suất trái phiếu chính phủ có cùng kỳ hạn, tỷ lệ nợ công trên GDP, cán cân tài khoản vãng lai, dự trữ ngoại hối, mức tín nhiệm về lạm phát mục tiêu, danh tiếng của ngân hàng trung ương, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số Dow Jones và S&P 500. Kết quả nhận định chính sách tiền tệ, việc quản lý nợ công và uy tín quốc gia có ảnh hưởng đáng kể đến rủi ro quốc gia và hiệu quả hoạt động của TTCK Brazil. Cùng thời gian này thì Nader và Alraimony (2012) xem xét tác động của biến cung tiền, GDP, CPI, tỷ giá hối đoái, lãi suất và biến giả biến động chính trị thế giới đến TTCK Jordan từ 01/1999 đến 12/2010. Tác giả cho rằng cung tiền, CPI, tỷ giá hối đoái, lãi suất và biến động chính trị có tương quan ngược chiều đối với biến động TTCK, ngược lại tốc độ tăng trưởng GDP có ảnh hưởng tích cực đến TSSL của TTCK Jordan. CỨU Nhóm tác giả Treynor (1961; 1962); Sharpe (1964) và Lintner (1965) đã xây dựng mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) để dự đoán tỷ suất sinh lợi (TSSL) kỳ vọng của CK dựa trên rủi ro hệ thống với thước đo hệ số beta. Sau này các nghiên cứu khác và thực tế đã chứng minh mô hình này có hạn chế vì TSSL CK chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó có nghiên cứu của Ross (1976) đề xuất mô hình kinh doanh chênh lệch giá (APT) khi đưa các yếu tố đa rủi ro giải thích TSSL CK như: chỉ số thất nghiệp, tốc độ tăng trưởng cung tiền, lạm phát, lãi suất, GDP hoặc cũng có thể sự kiện chính trị, … 16 năm sau, nghiên cứu của Fama và French (1992) dùng mô hình APT vào TTCK Mỹ (từ 1963 đến 1990) chứng minh rằng TSSL CK còn nhạy cảm với nhân tố: tỷ số giá trị sổ sách trên giá trị thị trường, đòn bẩy tài chính và P/E. Khác với Fama và French (1992), nghiên cứu của Flannery và Protopapadakis (2002) sử dụng nhiều hơn các biến số kinh tế vĩ mô (từ 1980 đến 1996) và sáu trong tám chỉ số được chọn là cán cân thương mại, số lượng nhà ở, chỉ số việc làm, CPI, cung tiền, chỉ số sản xuất công nghiệp có tác động đến TSSL CK Mỹ, trong khi GNP thực và giá trị sản lượng công nghiệp, là hai thước đo phổ biến đo lường mức độ hoạt động của nền kinh tế không tác động đến TTCK Mỹ. Ở TTCK Ghana, nhóm tác giả Issahaku, Ustarz và Domanban (2013) sử dụng biến cung tiền, tỷ giá hối đoái, lãi suất trái phiếu kho bạc, CPI và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (từ 1995 đến 2 ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiểm định các nhân tố vĩ mô tác động đến thị trường chứng khoán Việt Nam Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 70 - 78 Trường Đại học An Giang KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ VĨ MÔ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Huỳnh Thị Cẩm Hà1, Lê Thị Lanh2, Lê Thị Hồng Minh3 và Hoàng Thị Phương Anh4 1 ThS. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh PGS. TS. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 3 ThS. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 4 ThS. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 2 Thông tin chung: Ngày nhận bài: 19/05/14 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 08/06/14 Ngày chấp nhận đăng: 30/07/14 Title: Testing the effects of macroeconomic variables on the Vietnamese stock market Từ khóa: VNINDEX, biến số kinh tế vĩ mô, VECM, phân rã phương sai, IRF Keywords: VNINDEX, macroeconomic variables, VECM, variance decomposition, IRF ABSTRACT This paper analyzed the effect of macroeconomic variables including money supply (MS), lending interest rates (ITR), consumer price index (CPI), exchange rate (EXR) and industrial production (IP) on the Vietnamese stock market (VNINDEX) in the period from 2001 to 2013. Due to a vector co-integration between variables, we use ECM model to determine the relationship between the variables in short-run and VECM model to examine the long-run equilibrium relationship. In the long-run, MS and IP show negative and significant effect on VNINDEX, while ITR and CPI have positive and significant effect on VNINDEX. If macroeconomic shocks occur, VNINDEX will adjust to equilibrium position quite slowly. TÓM TẮT Nghiên cứu này phân tích tác động của các biến số kinh tế vĩ mô bao gồm cung tiền (MS), lãi suất cho vay (ITR), chỉ số giá tiêu dùng (CPI), tỷ giá hối đoái (EXR) và giá trị sản lượng công nghiệp (IP) đến thị trường chứng khoán Việt Nam (VNINDEX) trong giai đoạn 2001 đến 2013. Vì giữa các biến có tồn tại một vector đồng liên kết nên nghiên cứu sử dụng mô hình ECM để xác định mối quan hệ giữa các biến trong ngắn hạn và VECM nhằm kiểm tra mối quan hệ cân bằng dài hạn. Kết quả cho thấy trong dài hạn, MS và IP có mối quan hệ cùng chiều với VNINDEX, ITR và CPI có mối quan hệ ngược chiều với VNINDEX. Trường hợp khi xảy ra cú sốc các biến số vĩ mô thì quá trình VNINDEX điều chỉnh về mức cân bằng là khá chậm. chịu tác động bởi sự điều tiết chính sách chính phủ, các biến số kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. 1. GIỚI THIỆU TTCK (thị trường chứng khoán) là một trong những kênh đo lường sự phát triển kinh tế của một quốc gia và được xem là hiệu quả khi giá chứng khoán (CK) được điều chỉnh nhanh chóng khi xuất hiện thông tin mới. Hiệu quả của TTCK được xem là hiệu quả về mặt thông tin. TTCK Việt Nam (VN) chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2000, gần 14 năm cũng trải qua biết bao thăng trầm và TTCK biến động không những do yếu tố tâm lý khi đưa ra quyết định đầu tư mà còn Mục tiêu của bài viết nhằm đánh giá tác động của các biến số kinh tế vĩ mô lên TTCK VN và xem liệu các biến số này có thể dùng để dự báo biến động của TTCK VN hay không thông qua kiểm định đồng liên kết trong mô hình, kiểm định mô hình hiệu chỉnh sai số (VECM) và Granger Causality. Đồng thời bài viết cũng mở rộng thêm hướng nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của các cú sốc biến vĩ mô lên TTCK VN bằng phân tích phân rã phương sai và hàm phản ứng IRF. Các câu hỏi 70 Tạp chí Khoa học – 2014, Quyển 3 (2), 70 - 78 Trường Đại học An Giang nghiên cứu gồm: (1) Có tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa các biến số vĩ mô và TTCK VN hay không? và (2) Phản ứng của TTCK VN trước các cú sốc của các biến số kinh tế vĩ mô như thế nào? 2. TỔNG QUAN TRƯỚC ĐÂY CÁC NGHIÊN gia, chênh lệch giữa lợi suất các loại trái phiếu và lợi suất trái phiếu chính phủ có cùng kỳ hạn, tỷ lệ nợ công trên GDP, cán cân tài khoản vãng lai, dự trữ ngoại hối, mức tín nhiệm về lạm phát mục tiêu, danh tiếng của ngân hàng trung ương, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số Dow Jones và S&P 500. Kết quả nhận định chính sách tiền tệ, việc quản lý nợ công và uy tín quốc gia có ảnh hưởng đáng kể đến rủi ro quốc gia và hiệu quả hoạt động của TTCK Brazil. Cùng thời gian này thì Nader và Alraimony (2012) xem xét tác động của biến cung tiền, GDP, CPI, tỷ giá hối đoái, lãi suất và biến giả biến động chính trị thế giới đến TTCK Jordan từ 01/1999 đến 12/2010. Tác giả cho rằng cung tiền, CPI, tỷ giá hối đoái, lãi suất và biến động chính trị có tương quan ngược chiều đối với biến động TTCK, ngược lại tốc độ tăng trưởng GDP có ảnh hưởng tích cực đến TSSL của TTCK Jordan. CỨU Nhóm tác giả Treynor (1961; 1962); Sharpe (1964) và Lintner (1965) đã xây dựng mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) để dự đoán tỷ suất sinh lợi (TSSL) kỳ vọng của CK dựa trên rủi ro hệ thống với thước đo hệ số beta. Sau này các nghiên cứu khác và thực tế đã chứng minh mô hình này có hạn chế vì TSSL CK chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó có nghiên cứu của Ross (1976) đề xuất mô hình kinh doanh chênh lệch giá (APT) khi đưa các yếu tố đa rủi ro giải thích TSSL CK như: chỉ số thất nghiệp, tốc độ tăng trưởng cung tiền, lạm phát, lãi suất, GDP hoặc cũng có thể sự kiện chính trị, … 16 năm sau, nghiên cứu của Fama và French (1992) dùng mô hình APT vào TTCK Mỹ (từ 1963 đến 1990) chứng minh rằng TSSL CK còn nhạy cảm với nhân tố: tỷ số giá trị sổ sách trên giá trị thị trường, đòn bẩy tài chính và P/E. Khác với Fama và French (1992), nghiên cứu của Flannery và Protopapadakis (2002) sử dụng nhiều hơn các biến số kinh tế vĩ mô (từ 1980 đến 1996) và sáu trong tám chỉ số được chọn là cán cân thương mại, số lượng nhà ở, chỉ số việc làm, CPI, cung tiền, chỉ số sản xuất công nghiệp có tác động đến TSSL CK Mỹ, trong khi GNP thực và giá trị sản lượng công nghiệp, là hai thước đo phổ biến đo lường mức độ hoạt động của nền kinh tế không tác động đến TTCK Mỹ. Ở TTCK Ghana, nhóm tác giả Issahaku, Ustarz và Domanban (2013) sử dụng biến cung tiền, tỷ giá hối đoái, lãi suất trái phiếu kho bạc, CPI và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (từ 1995 đến 2 ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Biến số kinh tế vĩ mô Phân rã phương sai Tỷ giá hối đoái Giá trị sản lượng công nghiệp Lãi suất cho vay Chỉ số giá tiêu dùngTài liệu có liên quan:
-
Tiểu luận Thanh toán quốc tế: Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
25 trang 521 0 0 -
Tài trợ thương mại quốc tế và thanh toán quốc tế trong ngoại thương: Phần 1
275 trang 338 5 0 -
Tập bài giảng Nghiệp vụ thanh toán quốc tế - Trường Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai
39 trang 271 0 0 -
5 trang 259 0 0
-
Bài giảng Kinh tế học vĩ mô - Chương 1: Khái quát kinh tế vĩ mô
32 trang 173 0 0 -
Tài liệu Câu hỏi ôn tập thi vấn đáp môn học Thanh toán quốc tế
14 trang 142 0 0 -
Phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái tại các doanh nghiệp trên địa bàn Thừa Thiên Huế
10 trang 130 0 0 -
Giáo trình Thanh toán quốc tế trong du lịch: Phần 1 - TS. Trần Thị Minh Hòa
97 trang 120 0 0 -
Giáo trình Thanh toán tín dụng quốc tế (Nghề: Kế toán doanh nghiệp) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
77 trang 100 0 0 -
40 trang 92 0 0