Danh mục

Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công để kiềm chế lạm phát và vai trò của Kiểm toán nhà nước

Số trang: 22      Loại file: pdf      Dung lượng: 147.04 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (22 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong những năm gần đây, nhất là từ năm 2007 đến nay,lạm phát và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam đang là vấn đề nổi lên được nhiều người quan tâm. Mức lạm phát của năm 2007 là 12,6% và dự kiến năm 2008 lên tới 24-25% đã và đang đặt ra đòi hỏi với Chính phủ phải làm sao để kiềm chế lạm phát, đưa tỷ lệ lạm phát xuống mức có thể chấp nhận được. Trước tình hình nền kinh tế đang đối mặt với thách thức tỷ lệ lạm phát cao, ngay quý 2/2008, Chính phủ đã đưa ra 8 nhóm giải pháp;...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công để kiềm chế lạm phát và vai trò của Kiểm toán nhà nước Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công để kiềm chế lạm phát và vai trò của Kiểm toán nhà nước Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công để kiềm chế lạm phát và vai trò của Kiểm toán nhà nước Trong những năm gần đây, nhất là từ năm 2007 đến nay,lạm phát và kiểm soát lạm phát ở Việt Nam đang là vấn đề nổi lên được nhiều người quan tâm. Mức lạm phát của năm 2007 là 12,6% và dự kiến năm 2008 lên tới 24-25% đã và đang đặt ra đòi hỏi với Chính phủ phải làm sao để kiềm chế lạm phát, đưa tỷ lệ lạm phát xuống mức có thể chấp nhận được. Trước tình hình nền kinh tế đang đối mặt với thách thức tỷ lệ lạm phát cao, ngay quý 2/2008, Chính phủ đã đưa ra 8 nhóm giải pháp; trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến 2 nhóm giải pháp liên quan đến chi tiêu công,đó là: Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công,tiết kiệm chi thường xuyên; và triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, các đơn vị chủ động sử dụng dự toán đã được giao, không bổ sung chi ngân sách ngoài dự toán. Kết quả thực hiện khẩn trương và đồng bộ 8 nhóm giải pháp, trực tiếp nhất là các biện pháp quyết liệt trong thắt chặt chi tiêu công đã phát huy tác dụng, bước đầu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Vậy chi tiêu công có quan hệ gì với lạm phát? Phải chăng kiểm soát tốt chi tiêu công sẽ kiểm soát được lạm phát? Bài viết này sẽ góp phần làm sáng tỏ vấn đề đó. Lạm phát và mối quan hệ giữa chi tiêu công với lạm phát ở Việt Nam Lạm phát là một quá trình giá tăng liên tục.Quan điểm các nhà kinh tế học thuộc trường phái trọng tiền luôn cho rằng, lạm phát là hiện tượng tiền tệ. Điển hình là Milton Friendman- nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1976, đã đưa ra kết luận: “Lạm phát ở đâu và bao giờ cũng là hiện tượng tiền tệ”. Như vậy, phải chăng lạm phát chỉ liên quan đến chính sách tiền tệ, mà không liên quan đến chính sách tài khóa?Nghiên cứu của các nhà kinh tế dựa vào mô hình tổng cung và tổng cầu đã chỉ ra, lạm phát có thể xảy ra do tổng cầu tăng ( lạm phát do cầu kéo) hoặc do tổng cung giảm (lạm phát do chi phí đẩy). Tăng đầu tư và chi tiêu công để tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời cũng làm tăng tổng cầu. Do vậy, muốn giảm lạm phát thì Chính phủ cần cắt giảm tổng cầu thông qua giảm chi tiêu công, đặc biệt là đầu tư công, chấp nhận hy sinh mục tiêu tăng trưởng trong ngắn hạn để có được tăng trưởng cao, bền vững trong tương lai. Ở Việt Nam, từ năm 2001 Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Nhìn chung, tỷ lệ chi tiêu công luôn được duy trì ở mức khá cao so với GDP trong giai đoạn 2004-2007. Việc duy trì liên tục chi tiêu công ở mức cao, nhưng cũng có tác động làm tăng mức giá, gây ra lạm phát. - Trước hết, liên tục tăng chỉ tiêu công cao gây ra bội chi NSNN tăng dần theo thời gian. Tăng chi NSNN để kích cầu tiêu dùng, kích thích đầu tư và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu tăng chi quá mức cho phép của nền kinh tế, dẫn đến thâm hụt NSNN quá cao và để bù đắp thâm hụt này phải đi vay từ hai nguồn là vay trong nước và vay nước ngoài. Việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng nguồn huy động từ bên ngoài góp phần trực tiếp làm tăng cung tiền vào thị trường trong nước (lượng tiền tệ đổ vào đòi hỏi nhiều Ngân hàng Nhà nước phải phát hành nhiều tiền hơn để nội tệ hóa). Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn từ năm 2001-2007, NSNN cũng có chuyển biến đáng kể. Tốc độ tăng thu hàng năm bình quân tăng là 18,8%, nhưng thiếu bền vững do chủ yếu phụ thuộc vào thu từ dầu thô (27-30%) có biến động giá mạnh, trong khi tốc độ tăng chi bình quân hằng năm đạt 18,5%.Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mức bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản được cân đồi ở mức 5%GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP, tăng cao hơn các năm trước đó, chẳng hạn giai đoạn năm 1991-1995, mức bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 2000 ở mức 3,87%so với GDP.(nguồn chinh phu.vn) - Thứ hai, tăng chi tiêu công thông qua phát hành trái phiếu, công trái giáo dục cho đầu tư các dự án. Chương trình mục tiêu không trong cân đối NSNN, làm tăng số bội chi thực tế. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước phải cung ứng một lượng tiền không nhỏ để xử lý thiếu hụt tạm thời NSNN, theo quy định phải được hoàn trả trong năm ngân sách, nhưng trên thực tế thường không được hoàn trả đúng hạn; phát hành tiền ra để kích cầu đầu tư, phát hành tiển ra để tăng vốn các Ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng chính sách xã hội. Điều đó dẫn đến sự tích tụ tiền tệ qua các năm và góp phần làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng cao. - Thứ ba, sự gia tăng quy mô chi tiêu công cao cho đầu tư, nhưng không kiểm soát được hiểu quả của nguồn vốn đầu tư công; tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư cao, làm cho nhu cầu chi đầu tư phát triển càng gia tăng không thực chất, cao hơn mức cần thiết. Chi chuyển nguồn hàng năm còn quá lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và tạo ra “hư số” trong thu, chi NSNN(theo báo cáo Kiểm toán của KTNN: số chi chuyển nguồn từ năm 2005 sang năm 2006 hơn 50.500 tỷ đồng, bằng 21,9% dự toán chi NSNN và bằng 16% tổng số chi NSNN; từ năm 2006 đến năm 2007 hơn 77.600 tỷ đồng, bằng 26,3% dự toán chi NSNN và bằng 20% tổng số chi NSNN). Những năm gần đây, chúng ta đã quá chú ý tới tốc độ tăng trưởng và quyết tâm đạt tốc độ tăng trưởng cao nên đã dẫn tới tình trạng đầu tư năm sau cao hơn năm trước. Đầu tư ngân sách nhà nước có cơ cấu chưa hợp lý, còn dàn trải; hiệu quả đầu tư còn thấp, thất thoát, lãng phí trong quản lý và sử dụng đất đai, quản lý vốn đầu tư XDCB còn nghiêm trọng. Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86, năm 2007 là 4,76(1) Theo đánh giá của các chuyên gia, c ...

Tài liệu được xem nhiều: