Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. Một duyên hai nợ âu đành phần Năm nắng mười mưa dám quản công. Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiến thức lớp 11 Thương vợ - của Tú Xương –phần8 Kiến thức lớp 11Thương vợ - của Tú Xương –phần8Tư liệu tham khảo bài Thương vợThương vợ ( Tú Xương)Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng.Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông.Một duyên hai nợ âu đành phầnNăm nắng mười mưa dám quản công.Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,Có chồng hờ hững cũng như không.1.Tác giảTú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Học vị tú tài, lận đậnmãi trong con đường khoa cử: “Tám khoa chưa khỏi phạmtrường quy”, chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ôngthì bất tử. Quê ở làng Vị Xuyên, thành phố Nam Định. “Ăn chuốingự, đọc thơ Xương” là câu nói tự hào của đồng bào quê ông.Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ nôm, vài bài phú và văn tế.Có bài trào phúng. Có bài trữ tình. Có bài vừa trào phúng vừa trữtình. Giọng thơ trào phúng của Tú Xương vô cùng cay độc, dữdội mà xót xa. Ông là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền vănhọc cận đại của dân tộc.2.Chủ đềBài thơ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, củangười phụ nữ đảm đang chịu thương chịu khó vì chồng con.3.Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảoCâu 1, 2 giới thiệu bà Tú là một người đàn bà giỏi buôn bán, tầntảo “quanh năm”, buôn bán kiếm sống ở “mom sông”, cảnh đầuchợ, bến đò, buôn thúng bán mẹt. Chẳng có cửa hàng cửa hiệu.Vốn liếng chẳng có là bao. Thế mà vẫn “Nuôi đủ năm con với mộtchồng?”. Chồng đậu tú tài, chẳng là quan cũng chẳng là cùngđinh nên phải “ăn lương vợ”. Một gia cảnh “Vợ quen dạ để cáchnăm đôi”. Các số từ: “năm” (con), “một” (chồng) quả là đông đúc.Bà Tú vẫn cứ “nuôi đủ”, nghĩa là ông Tú vẫn có “giày giôn anhdận, ô Tây anh cầm”,… Câu thứ 2 rất hóm hỉnh.- Câu 3-4 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, tạo thành “thâncò” - thân phận lam lũ vất vả, “lặn lội”. Cò thì kiếm ăn nơi đầughềnh, cuối bãi, bà Tú thì lặn lội… khi quãng vắng, nơi momsông. Cảnh lên đò xuống bến, cảnh cãi vã, giành giật bán mua“eo sèo mặt nước buổi đò đông” để kiếm bát cơm manh áo chochồng, con. Hình ảnh “thân cò” rất sáng tạo, vần thơ trở nên dândã, bình dị. Hai cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” hô ứng, gợi tả mộtcuộc đời nhiều mồ hôi và nước mắt.- Câu 5, 6, tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: “Một duyên hainợ” và “năm nắng mười mưa”. Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âuđành phận”, “dám quản công” như một tiếng thở dài. Có đức hysinh. Có sự cam chịu số phận. Có cả tấm lòng chịu đựng, lo toanvì nghĩa vụ người vợ, người mẹ trong gia đình. Tú Xương có tàidùng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nói lên đức hy sinh thầm lặngcao quý của bà Tú:“Một duyên hai nợ/âu đành phận,Năm nắng mười mưa/dám quản công”.Tóm lại, bà Tú là hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụcủa bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫnnại,… tất cả lo toan cho hạnh phúc chồng con. Nhà thơ bộc lộlòng cảm ơn, nể trọng.4.Nỗi niềm nhà thơ- Câu 7 là một tiếng chửi, đúng là cách nói của Tú Xương vừacay đắng vừa phẫn nộ: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. “Cái thói đời”đó là xã hội dở Tây dở ta, nửa phong kiến nửa thực dân: đạo lýsuy đồi, lòng người đảo điên. Tú Xương tự trách mình là kẻ “ăn ởbạc” vì thi mãi chẳng đỗ, chẳng giúp được ích gì cho vợ con.Suốt đời vợ con phải khổ, như có bài thơ ông tự mỉa: “Vợ lăm leở vú - Con tập tểnh đi bộ - Khách hỏi nhà ông đến - Nhà ông đãbán rồi”.- Câu 8 thấm thía một nỗi đau chua xót. Chỉ có Tú Xương mới nóiđược rung động và xót xa thế: “Có chồng hờ hững cũng nhưkhông”. “Như không” gì? Một cách nói buông thõng, ngao ngán.Nỗi buồn tâm sự gắn liền với nỗi thế sự. Một nhà nho bất đắc chí!5.Kết luậnBài thơ có cái hay riêng. Hay từ nhan đề. Hay ở cách vận dụngca dao, thành ngữ và tiếng chửi. Chất thơ mộc mạc, bình dị màtrữ tình đằm thắm. Trong khuôn phép một bài thơ thất ngôn bátcú Đường luật, từ thanh điệu, niêm đến phép đôi được thể hiệnmột cách chuẩn mực, tự nhiên, thanh thoát. Tác giả vừa tự tráchmình vừa biểu lộ tình thương vợ, biết ơn vợ. Bà Tú là hình ảnhđẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong một gia đình đông con,nhiều khó khăn về kinh tế. Vì thế nhiều người cho rằng câu thơ“Nuôi đủ năm con với một chồng” là câu thơ hay nhất trong bài“Thương vợ”. ...