Chùa Việt Nam thường là một quần thể kiến trúc gồm những "ngôi nhà" được sắp xếp cạnh nhau, hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí của "ngôi nhà" mà người ta chia thành những kiểu kiến trúc chùa khác nhau.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kiến trúc chùa ở Việt Nam Kiến trúc chùa ở Việt Nam Chùa Việt Nam thường là một quần thể kiến trúc gồm những ngôi nhà được sắpxếp cạnh nhau, hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí của ngôi nhà mà người ta chiathành những kiểu kiến trúc chùa khác nhau. Tên các kiểu kiến trúc chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Hán códạng gần giống với mặt bằng kiến trúc chùa. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, chùa Việt Nam ngoàithờ Phật còn thờ thần (chùa Thầy và chùa Láng ở Hà Nội thờ Từ Đạo Hạnh và Lý ThầnTông), thờ tam giáo (Phật - Lão – Khổng), thờ Trúc Lâm Tam Tổ (Yên Tử),… Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ “chiền”. Một số người cho rằng từ“chiền” có thể có gốc từ từ cetiya của tiếng Pali hay caitya trong tiếng Phạn, cả haiđược dùng để chỉ điện thờ Phật. Theo câu tục ngữ Việt Nam “Đất vua, chùa làng”, các ngôi chùa đa số là thuộc vềcộng đồng làng xã. Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê ViệtNam. Việc chọn đất xây chùa thường chịu sự chi phối bởi quan niệm phong thủy. “Xâydựng chùa phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không, hoặc cósông ngòi, ao hồ ôm bọc. Núi hổ (hay tay hổ) ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầulại, hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long báu, hoặc có hình rồng, phượng, quy, xà,chầu bái. Đó là đất dương cơ ái hổ (nền dương có tay hổ) vậy. Nước thì nên chảy quanhsang trái. Nếu đảo kỵ, thì mạch nước lại vào phía trước. Trước mặt có minh đường haykhông có đều được cả. Phía sau không nên có núi áp kề, thế là đất tốt…’ Chùa Việt Nam thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc như tre,tranh cho đến gỗ, gạch, ngói…Nhưng người ta thường dành cho chùa những vật liệu tốtnhất có thể được. Vật liệu cũng như tiền bạc dùng cho việc xây dựng chùa thường đượcquyên góp trong mọi tầng lớp dân cư, gọi là của “công đức”. Người ta tin là sẽ đượchưởng phúc khi đem cúng vật liệu hay tiền bạc cho việc xây dựng chùa. Trên những cộtgỗ lim không bị mối mọt, một số chùa khắc rõ tên người đóng góp. Ngoài ra các tên nàycũng được ghi ở các bàn thờ bằng đá hoặc ở trên các đồ sành, sứ như bát hương, bìnhhoa, chân đèn…trong một danh sách dài. Chùa Trấn Quốc ở Hà Nội Ngày bắt đầu xây dựng chùa cũng như ngày khánh thành đều là những thời điểm cóý nghĩa trong đời sống dân làng quê Việt Nam. Thường có những nghi lễ đặc biệt trongnhững ngày này. Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình mà là một quần thể kiến trúc,gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí nhữngngôi nhà này mà người ta chia thành những kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùatruyền thống được đặt theo các chứ Hán có dạng gần với mặt bằng kiến trúc chùa. Chùachữ Đinh, có nhà chính điện hay còn gọi là thượng điện, là nhà đặt các bàn thờ Phật,được nối thẳng góc với nhà bái đường hay nhà tiền đường phía trước. Chùa chữ Công làchùa có nhà chính điện và nhà bái đường song song với nhau và được nối với nhau vàđược nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà thiêu hương, nơi sư làm lễ. Có nơi gọigian nhà nối nhà bái đường với Phật điện này là ống muống. Chùa chữ Tam là kiểu chùacó ba nếp nhà song song với nhau, thường được gọi là chùa Hạ. Chùa Kim Liên ở HàNội, chùa Tây Phương ở Hà Tây có dạng bố cục như thế này. Chùa kiểu Nội công ngoạiquốc là kiểu chùa có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậuđường (có thể nhà thổ hay nhà tăng) ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật baoquanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc ở giữa. Bố cụcmặt bằng chùa có dạng phía trong hình chữ Công, còn phía ngoài có khung bao quanhnhư chữ Khẩu hay như ở chữ Quốc. Đây là các dạng bố cục của các công trình kiến trúcchính. Chùa kiểu chữ Công là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên có một số ngoại lệ, tiêu biểu làchùa Một Cột ở Hà Nội có hình dáng một bông sen nở trên mặt nước, hay ngôi chùa mớiđược xây cất như chùa Vĩnh Nghiêm có hai tầng ở TP.Hồ Chí Minh mang trong mình cảnhũng nét truyền thống Phật giáo và cả những thành tựu của kiến trúc. Nhưng nhữngngoại lệ như vậy không nhiều. Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhàtổ, là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã tịch, hoặc nhà tăng, nơi ở của các nhà sưvà một số kiến trúc khác như gác chuông, tháp và tam quan. Kiến trúc chùa Việt Namđược xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, không giankhác nhau, và còn bị chi phối bởi phong cách kiến trúc địa phương. Ở miền Nam, chùakiểu chữ Tam phổ biến hơn ở miền Bắc. Người Mường làm chùa bằng tre đơn giản, chùacủa người Khmer chịu ảnh hưởng của chùa Cămpuchia và Thái Lan, chùa của người Hoacũng có sắc thái kiển trúc riêng… Tam quan là bộ phận không thể thiếu trong thành phần chùa Việt Nam. Là cổng vàochùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có hai tam quan, một tamquan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của Tam quan có thể dùng làm gác chuông.Qua tam quan là đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày đặt các chậu cảnh ,hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Diện tíchcủa sân phụ thuộc vào những điều kiện và đặc điểm riêng của từng chùa. Trong sân chùa,đôi khi có những ngọn tháp được xây dựng ở đây như chùa Dâu, chùa Thiên Mụ. Từ dướisân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn gọi tiền đuờng,nhà thiêu hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà báiđường có để đặt một số tượng, bia đá ghi sự tích ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánhnếu như ngoài cửa Tam quan không xây gác chuông. Giữa bái đường chính là hương án,nơi thắp hương chính. Thông thường người đến lễ chùa thắp hương ở đây. Số gian củabái đường túy thuộc vào quy mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian.Qua nhà bái đường là chính đi ...