Danh mục

Kinh nghiệm cải cách của Nhật Bản và việc xây dựng mô hình chính quyền địa phương ở Việt Nam

Số trang: 15      Loại file: pdf      Dung lượng: 228.61 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong suốt 100 năm qua, kể từ thời Minh Trị năm 1867, Nhật Bản đã tiến hành nhiều cuộc cải cách hệ thống chính quyền địa phương với mục đích xây dựng một hệ thống chính quyền địa phương hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Dưới thời Minh Trị, chính quyền địa phương được tổ chức theo mô hình tập trung quyền lực và hệ thống thứ bậc giống như mô hình của Đức và Pháp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh nghiệm cải cách của Nhật Bản và việc xây dựng mô hình chính quyền địa phương ở Việt Nam Kinh nghiệm cải cách của Nhật Bản và việc xây dựng mô hình chính quyền địa phương ở Việt Nam 1. Kinh nghiệm cải cách của Nhật Bản Trong suốt 100 năm qua, kể từ thời Minh Trị năm 1867, Nhật Bản đã tiến hành nhiều cuộc cải cách hệ thống chính quyền địa phương với mục đích xây dựng một hệ thống chính quyền địa phương hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Dưới thời Minh Trị, chính quyền địa phương được tổ chức theo mô hình tập trung quyền lực và hệ thống thứ bậc giống như mô hình của Đức và Pháp. Tuy nhiên, mô hình chính quyền Nhật Bản đã chuyển sang thời kỳ mới khi Hiến pháp năm 1946 quy định nguyên tắc “tự trị địa phương” một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Trên cơ sở đó, Luật Tự trị địa phương ban hành năm 1947, là văn bản pháp lý quan trọng quy định về tổ chức, hoạt động, chức năng và quyền hạn của các cơ quan ở địa phương. Theo quy định của Luật này, chính quyền địa phương của Nhật Bản có một số đặc điểm chính như sau: thứ nhất, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự trị địa phương. Nguyên tắc này đảm bảo quyền tự chủ của chính quyền địa phương khi thực hiên chức năng, nhiệm vụ của mình cũng như hạn chế sự can thiệp của chính quyền trung ương vào các công việc của địa phương; thứ hai, mô hình chính quyền được tổ chức theo hai cấp: Cấp vùng (prefectures) và cấp địa phương (municipalities). Mỗi cấp gồm có hội đồng và cơ quan hành pháp được tổ chức theo nguyên tắc bầu cử trực tiếp; thứ ba, chức danh tỉnh trưởng (governor) và thị trưởng (mayor) được bầu cử trực tiếp; thứ tư, chính quyền địa phương bên cạnh việc thực hiện các thẩm quyền chung mà pháp luật đã quy định cụ thể thì còn được trao quyền thực hiện các hoạt động mà pháp luật chưa quy định nếu hoạt động đó là vì lợi ích của người dân địa phương. Quy định này, tạo cho chính quyền địa phương sự chủ động, sáng tạo và đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu của nhân dân. Trong 100 năm qua, các cuộc cải cách tiêu biểu của Nhật Bản về hệ thống chính quyền địa phương được thực hiện như sau: a) Cuộc cải cách thứ nhất là tiến hành việc sáp nhập cấp chính quyền cấp cơ sở Việc sáp nhập này được thực hiện lần thứ nhất năm 1888-1889 được gọi là cải cách thời Minh Trị, thông qua việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp cơ sở, và số lượng đã giảm xuống 1/5 (từ 71.314 xuống còn 15.859 đơn vị hành chính cấp cơ sở). Lần sáp nhập lớn thứ hai được thực hiện từ năm 1953 đến năm 1961 - thời Showa - đã giảm số lượng đơn vị hành chính cấp cơ sở xuống còn 3.472 đơn vị. Lần sáp nhập thứ ba được thực hiện từ năm 1999 đến năm 2006 (thời Heiwa), số lượng đơn vị hành chính cấp cơ sở đã giảm thêm được một nửa. Kết quả là sau ba cuộc sáp nhập lớn, hiện nay Nhật Bản chỉ có 47 đơn vị hành chính cấp vùng và khoảng 1.800 đơn vị hành chính cấp cơ sở1[1]. Việc tiến hành sáp nhập các đơn vị hành chính cấp cơ sở đã có ý nghĩa quyết định trong việc hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương; giảm các chi phí quản lý cho quản lý hành chính, đảm bảo nguồn lực tài chính, 1[1] Quá trình sáp nhập cấp cơ sở ở Nhật Bản, Kiyotaka YOKOMICHI, Học viện quốc gia về Nghiên cứu chính sách (GRIPS), trang 2. nhân sự cho địa phương, nhất là trong các lĩnh vực quản lý đòi hỏi chí phí đầu tư cao, hay cần phải có sự phối kết hợp quản lý ở địa bàn rộng để có thể phát huy được nội lực của từng địa phương như vấn đề xử lý rác thải, cung cấp nước, vệ sinh y tế… Ngoài ra, để nâng cao năng lực quản lý cho chính quyền cấp cơ sở, Nhật Bản đã chú trọng vào việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ địa phương cùng với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quản lý, đảm bảo khả năng thực hiện hoạt động quản lý của chính quyền cấp cơ sở trong địa giới hành chính rộng hơn. b) Đẩy mạnh phân cấp quản lý Hiến pháp năm 1946 và Luật Tự trị địa phương năm 1947 là văn bản pháp lý quan trọng quy định về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương với mục tiêu xây dựng một hệ thống chính quyền địa phương độc lập thay cho mô hình tập trung quyền lực thời Minh Trị. Tuy nhiên chính quyền địa phương của Nhật Bản vẫn còn mang nhiều dấu hiệu của tập trung quyền lực, mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương chưa được quy định rõ. Đặc biệt, với sự tồn tại của hệ thống các cơ quan được ủy nhiệm chức năng, các thị trưởng không được thực hiện chức năng, nhiệm vụ độc lập mà thường là thực hiện chức năng của một cơ quan hay tổ chức đại diện của chính quyền trung ương ở địa phương. Bên cạnh đó, vai trò của Bộ Nội vụ trong việc thực hiện hoạt động giám sát và điều hành hoạt động của chính quyền cấp vùng và cấp cơ sở thể hiện sự phụ thuộc của địa phương về cơ cấu tổ chức. Hơn nữa, trong lĩnh vực ngân sách, chính quyền địa phương chưa được đảm bảo nguồn thu để chủ động trong việc chi tiêu ngân sách địa phương. Do đó, Nhật Bản đã tiến hành việc xóa bỏ hệ thống cơ quan ủy nhiệm chức năng ở địa phương vào năm 1991 và thực hiện các chương trình cải cách tài chính như: xóa bỏ ngân quỹ trợ cấp quốc gia; chuyển một số các nguồn thu chung như thuế địa phương và phân bổ thuế địa phương; thực hiện các biện pháp nhằm đơn giản hóa các thủ tục và điều kiện trợ cấp ngân sách cho địa phương. Trước yêu cầu đó, Nhật Bản đã ban hành Luật Tăng cường phân cấp quản lý năm 1995 với mục đích đẩy mạnh việc phân quyền cho chính quyền địa phương và hạn chế sự can thiệp của chính quyền trung ương vào công việc của chính quyền địa phương. Để thực hiện được mục tiêu này, Ủy ban Tăng cường phân cấp được thành lập, có kế hoạch tăng cường phân cấp để tiến hành những mục tiêu mà Luật Tăng cường phân cấp đã đề ra2[2]. Ngoài ra, Luật Tự trị địa phương được sửa đổi năm 2004 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn các hình thức can thiệp của chính quyền trung ương đối với địa phương, điều này thể hiện rõ yêu cầu của việc phân cấp quản lý là xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền mỗi cấp. Quá trình th ...

Tài liệu được xem nhiều: