Kinh nghiệm một số quốc gia về nâng cao khả năng tiếp cận tài chính và bài học cho Việt Nam
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 273.90 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu cần lựa chọn các giải pháp phù hợp thông qua quá trình nghiên cứu thực trạng ở Việt Nam cũng như học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Bài viết dưới đây đưa ra kinh nghiệm của một số quốc gia khá thành công về tài chính toàn diện, đồng thời gợi ý một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động này tại Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh nghiệm một số quốc gia về nâng cao khả năng tiếp cận tài chính và bài học cho Việt Nam KINH NGHIỆM MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÀI CHÍNH VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM ThS. Trần Thị Thu Nguyệt Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên Tóm tắt Với hơn 97 triệu người trong đó khoảng 70% dân số sống ở vùng nông thôn với tỷ lệ nghèo còn khá cao, việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức tại Việt Nam còn rất thấp. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), đến năm 2018 chỉ có 31% người trưởng thành và 20% người nghèo được tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thống, tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ngân hàng ở Việt Nam cũng mới chỉ đạt hơn 40% (NHNN Việt Nam, 2019), thấp hơn rất nhiều so với các quốc giacó mức thu nhập trung bình trong khu vực, cụ thể tỷ lệ này tại Malaysia là 85%, Thái Lan là 81,6% và Ấn Độ là 80% (Global Findex Database, 2018). Trong khi đó, việc nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính toàn diện (financial inclusion) được coi là điều kiện tiên quyết cho việc đạt được tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững (UNDP, 2010; WB, 2013). Điều này đòi hỏi chúng ta cần lựa chọn các giải pháp phù hợp thông qua quá trình nghiên cứu thực trạng ở Việt Nam cũng như học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Bài viết dưới đây đưa ra kinh nghiệm của một số quốc gia khá thành công về tài chính toàn diện, đồng thời gợi ý một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động này tại Việt Nam. Từ khoá: Tiếp cận tài chính, tài chính toàn diện, financial inclusion 1. Tài chính toàn diện là gì Khái niệm tài chính toàn diện bắt nguồn từ năm 1976 khi Giáo sư Muhammad Yunus thực hiện khoản cho vay đầu tiên trị giá 27USD cho một nhóm phụ nữ dệt may tại Bangladesh. Từ món vay nhỏ nhưng có ý nghĩa đó, Yunus đã phát triển thành mô hình Grameen Bank, cung cấp các dịch vụ tài chính cho hơn 8 triệu người có thu nhập thấp tại Bangladesh. Đúng như ý nghĩa của khoản vay, tài chính toàn diện là tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành viên trong cộng đồng được tiếp cận với các dịch vụ tài chính, đặc biệt là các nhóm dân cư có thu nhập thấp, hoặc sinh sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa và nhóm hộ kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sau Yunus, Leyshon and Thrift (1995) đã đưa ra khái niệm rằng “Tài chính toàn diện là quá trình một số nhóm xã hội và cá nhân nhất định được tiếp cận với hệ thống tài chính chính thức”, trong khi đó Liên Hiệp Quốc cho rằng chính toàn diện là “cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý cho người dân”, trong đó các dịch vụ tài chính cơ bản bao gồm tiết kiệm, tín dụng ngắn hạn và dài hạn, cho thuê và bao thanh toán, thế chấp, bảo hiểm, trợ cấp, thanh toán, chuyển tiền trong nước và chuyển tiền quốc tế (Bluebook, 2006). Tại Ấn Độ, một trong những quốc gia mà hoạt động tài chính vi mô khá phát triển thì tài chính toàn diện lại được Uỷ ban Tài chính Toàn diện của Chính phủ định nghĩa là “quá trình đảm bảo các nhóm dân cư thiệt thòi chẳng hạn như tầng lớp yếu thế và nhóm thu nhập thấp có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính và tín dụng kịp thời và đầy đủ khi cần thiết với chi phí phải chăng” (Ủy ban Rangarajan, 2008), còn theo Ngân hàng Thế giới (2008) nâng cao tiếp cận tài chính toàn diện là khi không còn các rào cản giá cả và phi giá cả trong việc sử dụng các dịch vụ tài chính, nâng cao tiếp cận có nghĩa là cải thiện mức độ cung cấp các dịch vụ tài chính với mức giá phải chăng. Trong đó, tài chính vi mô được coi là một hình thức của quá trình mở rộng tiếp cận dịch vụ tài chính. Như vậy, cho dù có được định nghĩa thế nào bằng các cách khác nhau thì cũng đều có thể hiểu rằng, tài chính toàn diện là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi cá 543 nhân và tổ chức, đặc biệt là đối với người có thu nhập thấp nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia. 2. Kinh nghiệm quốc tế về nâng cao khả năng tiếp cận tài chính toàn diện 2.1. Ấn Độ Là quốc gia có dân số cao thứ hai thế giới nhưng Ấn Độ là một trong những quốc gia thực hiện tiếp cận tài chính khá hiệu quả, nhất là cho những đối tượng là người nghèo và người có thu nhập thấp mà hiệu quả bắt nguồn từ việc đi đầu trong các chương trình phát triển tài chính vi mô. Tại Ấn Độ, tài chính toàn diện được triển khai lần đầu tiên vào năm 1998 với mô hình Swayam Krishi Sangam (SKS). SKS cung cấp các sản phẩm TCVM thông qua việc cho vay đối với nhóm phụ nữ nghèo vì mục đích lợi nhuận. SKS vận hành theo mô hình Joint Liability Group - JLG - hình thức tín dụng thực hiện theo nhóm năm thành viên. SKS cung cấp 8 sản phẩm và dịch vụ tài chính cho các khách hàng: vay tạo thu nhập, các khoản cho vay trung hạn, hỗ trợ tang, khoản vay vàng, vay nhà ở, bảo hiểm nhân thọ… Nhờ chú trọng vào thiết kế các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng, phù hợp với nhu cầu của nhiều đối tượng dân cư và sự tiên phong trong phát triển hệ thống thông tin quản lý (MIS) mà SKS đã tiếp cận tới hàng triệu hộ gia đình nghèo trên khắp Ấn Độ. Từ khi thành lập, SKS đã cung cấp 40 triệu USD tín dụng vi mô cho hơn 150.000 phụ nữ ở miền Nam Ấn Độ thông qua 45 chi nhánh và 500 nhân viên. Tiếp sau đó, năm 2005, Ngân hàng Trung ương Ấn Độ (RBI) đã thực hiện một dự án thí điểm tại làng Mangalam, bang UT of Pondicherry về tài chính toàn diện. Làng trở thành ngôi làng đầu tiên ở Ấn Độ, nơi mà tất cả các hộ gia đình được cung cấp các tiện ích ngân hàng. Nhằm đảm bảo rằng những người thuộc nhóm thu nhập thấp, cả ở khu vực thành thị và nông thôn đều không gặp trở ngại trong việc mở tài khoản ngân hàng, quy trình tìm hiểu khách hàng (KYC) để mở tài khoản ngân hàng đã được đơn giản ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh nghiệm một số quốc gia về nâng cao khả năng tiếp cận tài chính và bài học cho Việt Nam KINH NGHIỆM MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÀI CHÍNH VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM ThS. Trần Thị Thu Nguyệt Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên Tóm tắt Với hơn 97 triệu người trong đó khoảng 70% dân số sống ở vùng nông thôn với tỷ lệ nghèo còn khá cao, việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức tại Việt Nam còn rất thấp. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), đến năm 2018 chỉ có 31% người trưởng thành và 20% người nghèo được tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thống, tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ngân hàng ở Việt Nam cũng mới chỉ đạt hơn 40% (NHNN Việt Nam, 2019), thấp hơn rất nhiều so với các quốc giacó mức thu nhập trung bình trong khu vực, cụ thể tỷ lệ này tại Malaysia là 85%, Thái Lan là 81,6% và Ấn Độ là 80% (Global Findex Database, 2018). Trong khi đó, việc nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính toàn diện (financial inclusion) được coi là điều kiện tiên quyết cho việc đạt được tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững (UNDP, 2010; WB, 2013). Điều này đòi hỏi chúng ta cần lựa chọn các giải pháp phù hợp thông qua quá trình nghiên cứu thực trạng ở Việt Nam cũng như học hỏi kinh nghiệm quốc tế. Bài viết dưới đây đưa ra kinh nghiệm của một số quốc gia khá thành công về tài chính toàn diện, đồng thời gợi ý một số giải pháp để thúc đẩy hoạt động này tại Việt Nam. Từ khoá: Tiếp cận tài chính, tài chính toàn diện, financial inclusion 1. Tài chính toàn diện là gì Khái niệm tài chính toàn diện bắt nguồn từ năm 1976 khi Giáo sư Muhammad Yunus thực hiện khoản cho vay đầu tiên trị giá 27USD cho một nhóm phụ nữ dệt may tại Bangladesh. Từ món vay nhỏ nhưng có ý nghĩa đó, Yunus đã phát triển thành mô hình Grameen Bank, cung cấp các dịch vụ tài chính cho hơn 8 triệu người có thu nhập thấp tại Bangladesh. Đúng như ý nghĩa của khoản vay, tài chính toàn diện là tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành viên trong cộng đồng được tiếp cận với các dịch vụ tài chính, đặc biệt là các nhóm dân cư có thu nhập thấp, hoặc sinh sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa và nhóm hộ kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sau Yunus, Leyshon and Thrift (1995) đã đưa ra khái niệm rằng “Tài chính toàn diện là quá trình một số nhóm xã hội và cá nhân nhất định được tiếp cận với hệ thống tài chính chính thức”, trong khi đó Liên Hiệp Quốc cho rằng chính toàn diện là “cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý cho người dân”, trong đó các dịch vụ tài chính cơ bản bao gồm tiết kiệm, tín dụng ngắn hạn và dài hạn, cho thuê và bao thanh toán, thế chấp, bảo hiểm, trợ cấp, thanh toán, chuyển tiền trong nước và chuyển tiền quốc tế (Bluebook, 2006). Tại Ấn Độ, một trong những quốc gia mà hoạt động tài chính vi mô khá phát triển thì tài chính toàn diện lại được Uỷ ban Tài chính Toàn diện của Chính phủ định nghĩa là “quá trình đảm bảo các nhóm dân cư thiệt thòi chẳng hạn như tầng lớp yếu thế và nhóm thu nhập thấp có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính và tín dụng kịp thời và đầy đủ khi cần thiết với chi phí phải chăng” (Ủy ban Rangarajan, 2008), còn theo Ngân hàng Thế giới (2008) nâng cao tiếp cận tài chính toàn diện là khi không còn các rào cản giá cả và phi giá cả trong việc sử dụng các dịch vụ tài chính, nâng cao tiếp cận có nghĩa là cải thiện mức độ cung cấp các dịch vụ tài chính với mức giá phải chăng. Trong đó, tài chính vi mô được coi là một hình thức của quá trình mở rộng tiếp cận dịch vụ tài chính. Như vậy, cho dù có được định nghĩa thế nào bằng các cách khác nhau thì cũng đều có thể hiểu rằng, tài chính toàn diện là việc cung cấp dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi cá 543 nhân và tổ chức, đặc biệt là đối với người có thu nhập thấp nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận tài chính, góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia. 2. Kinh nghiệm quốc tế về nâng cao khả năng tiếp cận tài chính toàn diện 2.1. Ấn Độ Là quốc gia có dân số cao thứ hai thế giới nhưng Ấn Độ là một trong những quốc gia thực hiện tiếp cận tài chính khá hiệu quả, nhất là cho những đối tượng là người nghèo và người có thu nhập thấp mà hiệu quả bắt nguồn từ việc đi đầu trong các chương trình phát triển tài chính vi mô. Tại Ấn Độ, tài chính toàn diện được triển khai lần đầu tiên vào năm 1998 với mô hình Swayam Krishi Sangam (SKS). SKS cung cấp các sản phẩm TCVM thông qua việc cho vay đối với nhóm phụ nữ nghèo vì mục đích lợi nhuận. SKS vận hành theo mô hình Joint Liability Group - JLG - hình thức tín dụng thực hiện theo nhóm năm thành viên. SKS cung cấp 8 sản phẩm và dịch vụ tài chính cho các khách hàng: vay tạo thu nhập, các khoản cho vay trung hạn, hỗ trợ tang, khoản vay vàng, vay nhà ở, bảo hiểm nhân thọ… Nhờ chú trọng vào thiết kế các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng, phù hợp với nhu cầu của nhiều đối tượng dân cư và sự tiên phong trong phát triển hệ thống thông tin quản lý (MIS) mà SKS đã tiếp cận tới hàng triệu hộ gia đình nghèo trên khắp Ấn Độ. Từ khi thành lập, SKS đã cung cấp 40 triệu USD tín dụng vi mô cho hơn 150.000 phụ nữ ở miền Nam Ấn Độ thông qua 45 chi nhánh và 500 nhân viên. Tiếp sau đó, năm 2005, Ngân hàng Trung ương Ấn Độ (RBI) đã thực hiện một dự án thí điểm tại làng Mangalam, bang UT of Pondicherry về tài chính toàn diện. Làng trở thành ngôi làng đầu tiên ở Ấn Độ, nơi mà tất cả các hộ gia đình được cung cấp các tiện ích ngân hàng. Nhằm đảm bảo rằng những người thuộc nhóm thu nhập thấp, cả ở khu vực thành thị và nông thôn đều không gặp trở ngại trong việc mở tài khoản ngân hàng, quy trình tìm hiểu khách hàng (KYC) để mở tài khoản ngân hàng đã được đơn giản ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tài chính toàn diện Dịch vụ tài chính Cung cấp tài chính Thị trường tài chính Tăng trưởng kinh tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Thị trường chứng khoán: Phần 1 - PGS.TS. Bùi Kim Yến, TS. Thân Thị Thu Thủy
281 trang 971 34 0 -
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô: Phần 1 - N. Gregory Mankiw, Vũ Đình Bách
117 trang 713 3 0 -
2 trang 515 13 0
-
2 trang 352 13 0
-
293 trang 296 0 0
-
Nguồn lực tài chính phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở Việt Nam
3 trang 245 0 0 -
Thực trạng phát triển Mobile Money ở Việt Nam và một số khuyến nghị
6 trang 228 0 0 -
Nghiên cứu tâm lý học hành vi đưa ra quyết định và thị trường: Phần 2
236 trang 226 0 0 -
Bàn về xây dựng mô hình tập đoàn tài chính - Ngân hàng ở Việt Nam
4 trang 210 0 0 -
13 trang 191 0 0