KINH TẾ ĐỐI NGOẠI NƯỚC TA HIỆN NAY: TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP
Số trang: 19
Loại file: doc
Dung lượng: 141.00 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 1
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sự phát triển kinh tế đối ngoại nước ta trong thời gian vừa qua đã có ý
nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng
kinh tế của nước ta. Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu cả về tăng
trưởng xuất nhập khẩu, thu hút vốn nước ngoài và phát triển du lịch. Bài
viết này sẽ đề cập đến hai vấn đề: phân tích hiện trạng và vấn đề; nêu ra
các quan điểm phát triển và giải pháp. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI NƯỚC TA HIỆN NAY: TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP KINH TẾ ĐỐI NGOẠI NƯỚC TA HIỆN NAY: TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP Tác giả: PGS-TSKH Võ Đại Lược Sự phát triển kinh tế đối ngoại nước ta trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta. Nước ta đã đạt được nhiều thành t ựu c ả v ề tăng trưởng xuất nhập khẩu, thu hút vốn nước ngoài và phát triển du l ịch. Bài viết này sẽ đề cập đến hai vấn đề: phân tích hiện trạng và vấn đ ề; nêu ra các quan điểm phát triển và giải pháp. I. Hiện trạng và vấn đề Việc đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đã là cơ sở cho những thành công trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, nhưng đồng thời thực tiễn những năm vừa qua cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề cần phân tích lý giải. Dưới đây xin nêu ra những điểm chính của tình hình và m ột s ố vấn đề có thể là cấp bách. 1. Kinh tế đối ngoại đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong cả thập kỷ 90, mặc dù có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999 Lý do cho sự tăng trưởng cao của các lĩnh vực kinh tế đối ngoại trên có thể là tương đối rõ, nhưng lý do cho sự sụt giảm tốc độ tăng tr ưởng kinh tế đối ngoại trong những năm gần đây còn có thể có những ý kiến khác nhau. Đúng là có lý do khách quan do suy giảm kinh tế toàn c ầu và khu vực, do giá hàng xuất khẩu của ta giảm nghiêm trọng... Tuy nhiên, Trung Quốc cũng chịu tác động bởi những hoàn cảnh khách quan bên ngoài như nước ta nhưng cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào Trung Quốc trong vài năm nay vẫn có mức tăng trưởng cao. Do vậy, việc giảm tăng trưởng của cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào nước ta trong thời gian qua không ch ỉ do nguyên nhân khách quan, mà có thể lại do những nguyên nhân ch ủ quan là chính. Trong các nguyên nhân chủ quan đó, có thể kể ra các nguyên nhân chính sau đây: Trước hết, đó là tình trạng bảo hộ mậu dịch không gi ảm đáng k ể mà còn gia tăng. Mức thuế suất nhập khẩu bình quân đã được giảm từ trên 16% xuống còn trên 13% trong thời gian 1996 - 1998, nhưng đã tăng lên tới 16% vào năm 2001. Khung thuế nhiều và nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu mức thuế cao; chỉ có 20% số dòng thuế được áp dụng mức thuế dưới 5%. Việc hoàn thuế cho các hàng hoá nhập để xuất có quá nhi ều th ủ t ục ph ức tạp phiền hà và kém hiệu lực. Các biện pháp phi thu ế quan nh ằm b ảo h ộ mậu dịch vẫn còn được áp dụng đối với nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự quản lý của các bộ chuyên ngành. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao này tưởng như chỉ có tác dụng ngăn chặn các dòng hàng nhập khẩu, nhưng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ hoạt động kinh t ế đ ối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào các hàng hoá nhập khẩu, giá bán của chúng và các hàng hoá liên quan ở trong nước đã tăng lên. Các nhà xu ất khẩu phải sử dụng các hàng hoá giá cao này, công nhân viên của họ cũng phải tiêu dùng các hàng hoá nhập khẩu giá cao, mà mức cao giá này ước tính vào khoảng 20 - 100% tuỳ theo mặt hàng. Do vậy đã đ ẩy chi phí c ủa các hàng xuất khẩu tăng lên, giảm khả năng cạnh tranh của chúng, và tác động xấu đến xuất khẩu. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao chỉ khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu, FDI cũng tự nhiên ph ải theo h ướng này, trong khi thị trường nội địa của ta nhỏ bé và ngày càng bão hoà, do vậy FDI không tăng lên được và thậm chí đã chậm lại. Hàng rào bảo hộ còn ảnh hưởng xấu tới cả du lịch, vì giá cả tiêu dùng ở Việt Nam cao, không hấp dẫn khách du lịch. Thứ hai, chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so v ới các qu ốc gia trong khu vực, do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm thiểu. Chi phí sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập kh ẩu, thuế doanh thu,VAT, các phụ phí, tiền lương, giá các dịch vụ, công ngh ệ được s ử dụng... Thuế nhập khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quan, của nước ta hiện nay có lẽ ở vào hàng cao nhất khu vực, cao hơn cả Trung Quốc, trong khi mức thuế quan của nhiều quốc gia Đông Á hiện chỉ còn vào khoảng 4 - 6%. Thuế doanh thu của ta ở mức 32%, cũng vào hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, phụ thu... đều ở mức cao. Thuế thu nh ập đối với người nước ngoài của ta hiện ở mức cao nhất trong khu v ực, là 50%, trong khi ở Inđônêxia là 30%, ở Thái Lan là 37%, ở Trung Quốc là 45%. Mức thuế thu nhập cao này đã làm cho người nước ngoài không muốn làm việc ở Việt Nam. Tính chung chi phí lao động của nước ta hiện nay tương tự v ới Indonexia, và thấp hơn các nước ASEAN-4, nhưng mức thấp này đã giảm dần. Giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, đi ện, n ước... đ ều ở mức cao: chi phí điện cao hơn 4 nước ASEAN: Xingapo, Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia; giá nước cao hơn Philipin và gần ngang với Malaixia, Thái Lan; chi phí liên lạc, viễn thông vào loại cao nh ất khu v ực; chi phí v ận t ải hàng không, đường biển cao hơn cả Trung Quốc. Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc hậu so với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, xí nghiệp sản xuất xi măng Sao Mai do nước ngoài đầu tư sản xuất ở nước ta 1 tấn xi măng chi phí 12 USD, trong khi các xí nghiệp sản xuất xi măng của ta chi phí 26 USD. Chi phí sản xuất của ta cao như vậy, nên khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm thiểu cả ở thị trường trong lẫn ngoài nước. Thứ ba, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh t ế đ ối ngo ại yếu. Tỷ giá giữa đồng VN với USD và các đồng tiền khác tuy đã được nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao. Theo một số chuyên gia nước ngoài, mức cao này khoảng trên 10%, và đã tác đ ộng tiêu c ực đến hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và Liên minh châu Âu, trừ Trung Quốc và Mỹ. Đồng VN cao giá và chưa do thị trường đích thực xác định đã tác động xấu không ch ỉ t ới xu ất kh ẩu mà cả tới FDI và du lịch. Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, ch ưa có th ể chuyển đổi tự do. Trong khi tổng giá trị xuất nhập khẩu của nước ta đã ngang bằng tổng GDP, thì đây là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn đến thế, mà đồng tiền không chuyển đổi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI NƯỚC TA HIỆN NAY: TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP KINH TẾ ĐỐI NGOẠI NƯỚC TA HIỆN NAY: TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP Tác giả: PGS-TSKH Võ Đại Lược Sự phát triển kinh tế đối ngoại nước ta trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta. Nước ta đã đạt được nhiều thành t ựu c ả v ề tăng trưởng xuất nhập khẩu, thu hút vốn nước ngoài và phát triển du l ịch. Bài viết này sẽ đề cập đến hai vấn đề: phân tích hiện trạng và vấn đ ề; nêu ra các quan điểm phát triển và giải pháp. I. Hiện trạng và vấn đề Việc đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đã là cơ sở cho những thành công trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, nhưng đồng thời thực tiễn những năm vừa qua cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề cần phân tích lý giải. Dưới đây xin nêu ra những điểm chính của tình hình và m ột s ố vấn đề có thể là cấp bách. 1. Kinh tế đối ngoại đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong cả thập kỷ 90, mặc dù có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999 Lý do cho sự tăng trưởng cao của các lĩnh vực kinh tế đối ngoại trên có thể là tương đối rõ, nhưng lý do cho sự sụt giảm tốc độ tăng tr ưởng kinh tế đối ngoại trong những năm gần đây còn có thể có những ý kiến khác nhau. Đúng là có lý do khách quan do suy giảm kinh tế toàn c ầu và khu vực, do giá hàng xuất khẩu của ta giảm nghiêm trọng... Tuy nhiên, Trung Quốc cũng chịu tác động bởi những hoàn cảnh khách quan bên ngoài như nước ta nhưng cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào Trung Quốc trong vài năm nay vẫn có mức tăng trưởng cao. Do vậy, việc giảm tăng trưởng của cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào nước ta trong thời gian qua không ch ỉ do nguyên nhân khách quan, mà có thể lại do những nguyên nhân ch ủ quan là chính. Trong các nguyên nhân chủ quan đó, có thể kể ra các nguyên nhân chính sau đây: Trước hết, đó là tình trạng bảo hộ mậu dịch không gi ảm đáng k ể mà còn gia tăng. Mức thuế suất nhập khẩu bình quân đã được giảm từ trên 16% xuống còn trên 13% trong thời gian 1996 - 1998, nhưng đã tăng lên tới 16% vào năm 2001. Khung thuế nhiều và nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu mức thuế cao; chỉ có 20% số dòng thuế được áp dụng mức thuế dưới 5%. Việc hoàn thuế cho các hàng hoá nhập để xuất có quá nhi ều th ủ t ục ph ức tạp phiền hà và kém hiệu lực. Các biện pháp phi thu ế quan nh ằm b ảo h ộ mậu dịch vẫn còn được áp dụng đối với nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự quản lý của các bộ chuyên ngành. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao này tưởng như chỉ có tác dụng ngăn chặn các dòng hàng nhập khẩu, nhưng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ hoạt động kinh t ế đ ối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào các hàng hoá nhập khẩu, giá bán của chúng và các hàng hoá liên quan ở trong nước đã tăng lên. Các nhà xu ất khẩu phải sử dụng các hàng hoá giá cao này, công nhân viên của họ cũng phải tiêu dùng các hàng hoá nhập khẩu giá cao, mà mức cao giá này ước tính vào khoảng 20 - 100% tuỳ theo mặt hàng. Do vậy đã đ ẩy chi phí c ủa các hàng xuất khẩu tăng lên, giảm khả năng cạnh tranh của chúng, và tác động xấu đến xuất khẩu. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao chỉ khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu, FDI cũng tự nhiên ph ải theo h ướng này, trong khi thị trường nội địa của ta nhỏ bé và ngày càng bão hoà, do vậy FDI không tăng lên được và thậm chí đã chậm lại. Hàng rào bảo hộ còn ảnh hưởng xấu tới cả du lịch, vì giá cả tiêu dùng ở Việt Nam cao, không hấp dẫn khách du lịch. Thứ hai, chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so v ới các qu ốc gia trong khu vực, do vậy lợi thế cạnh tranh bị giảm thiểu. Chi phí sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập kh ẩu, thuế doanh thu,VAT, các phụ phí, tiền lương, giá các dịch vụ, công ngh ệ được s ử dụng... Thuế nhập khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quan, của nước ta hiện nay có lẽ ở vào hàng cao nhất khu vực, cao hơn cả Trung Quốc, trong khi mức thuế quan của nhiều quốc gia Đông Á hiện chỉ còn vào khoảng 4 - 6%. Thuế doanh thu của ta ở mức 32%, cũng vào hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, phụ thu... đều ở mức cao. Thuế thu nh ập đối với người nước ngoài của ta hiện ở mức cao nhất trong khu v ực, là 50%, trong khi ở Inđônêxia là 30%, ở Thái Lan là 37%, ở Trung Quốc là 45%. Mức thuế thu nhập cao này đã làm cho người nước ngoài không muốn làm việc ở Việt Nam. Tính chung chi phí lao động của nước ta hiện nay tương tự v ới Indonexia, và thấp hơn các nước ASEAN-4, nhưng mức thấp này đã giảm dần. Giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, đi ện, n ước... đ ều ở mức cao: chi phí điện cao hơn 4 nước ASEAN: Xingapo, Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia; giá nước cao hơn Philipin và gần ngang với Malaixia, Thái Lan; chi phí liên lạc, viễn thông vào loại cao nh ất khu v ực; chi phí v ận t ải hàng không, đường biển cao hơn cả Trung Quốc. Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc hậu so với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, xí nghiệp sản xuất xi măng Sao Mai do nước ngoài đầu tư sản xuất ở nước ta 1 tấn xi măng chi phí 12 USD, trong khi các xí nghiệp sản xuất xi măng của ta chi phí 26 USD. Chi phí sản xuất của ta cao như vậy, nên khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm thiểu cả ở thị trường trong lẫn ngoài nước. Thứ ba, chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh t ế đ ối ngo ại yếu. Tỷ giá giữa đồng VN với USD và các đồng tiền khác tuy đã được nhiều lần điều chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao. Theo một số chuyên gia nước ngoài, mức cao này khoảng trên 10%, và đã tác đ ộng tiêu c ực đến hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và Liên minh châu Âu, trừ Trung Quốc và Mỹ. Đồng VN cao giá và chưa do thị trường đích thực xác định đã tác động xấu không ch ỉ t ới xu ất kh ẩu mà cả tới FDI và du lịch. Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, ch ưa có th ể chuyển đổi tự do. Trong khi tổng giá trị xuất nhập khẩu của nước ta đã ngang bằng tổng GDP, thì đây là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn đến thế, mà đồng tiền không chuyển đổi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
quản lý kinh tế phương thức quản lý quy định nhà nước bộ máy nhà nước quy trình quản lý kinh tế quản lýTài liệu liên quan:
-
BÀI THU HOẠCH QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
16 trang 315 0 0 -
197 trang 276 0 0
-
Tổng luận Giải pháp chính sách phát triển nền kinh tế số
46 trang 252 1 0 -
9 trang 232 0 0
-
Môi trường sinh thái và đổi mới quản lý kinh tế: Phần 2
183 trang 214 0 0 -
Giáo trình Nguyên lý quản lý kinh tế: Phần 1
102 trang 212 2 0 -
42 trang 174 0 0
-
12 trang 158 0 0
-
báo cáo thực tập công ty than hồng thái
97 trang 158 0 0 -
Tiểu luận Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
20 trang 156 0 0