Kinh tế Fulbright - Các định chế, nhà nước và thị trường: đối tác cho phát triển
Số trang: 14
Loại file: pdf
Dung lượng: 322.38 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
CÁC ĐỊNH CHẾ, NHÀ NƯỚC, VÀ THỊ TRƯỜNG: ĐỐI TÁC CHO PHÁT TRIỂN Các doanh nghiệp không hoạt động trong môi trường chân không; họ không thể hoạt động thành công hoặc có khả năng cạnh tranh khi thiếu các định chế thích hợp, khi vai trò của chính phủ không được xác định rõ ràng, và khi môi trường đầu tư không đầy đủ. Hình 3.2 ở phần trước cho thấy rằng cơ sở hạ tầng tổng thể - chủ yếu do chính phủ cung cấp - tác động đến cách thức doanh nghiệp phát triển khả năng công...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh tế Fulbright - Các định chế, nhà nước và thị trường: đối tác cho phát triển Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển II Các định chế, nhà nước và thị trường: Niên khoá 2005-2006 Bài đọc đối tác cho phát triển CÁC ĐỊNH CHẾ, NHÀ NƯỚC, VÀ THỊ TRƯỜNG: ĐỐI TÁC CHO PHÁT TRIỂN Các doanh nghiệp không hoạt động trong môi trường chân không; họ không thể hoạt động thành công hoặc có khả năng cạnh tranh khi thiếu các định chế thích hợp, khi vai trò của chính phủ không được xác định rõ ràng, và khi môi trường đầu tư không đầy đủ. Hình 3.2 ở phần trước cho thấy rằng cơ sở hạ tầng tổng thể - chủ yếu do chính phủ cung cấp - tác động đến cách thức doanh nghiệp phát triển khả năng công nghệ và quản lý doanh nghiệp. Do vậy, một chiến lược phát triển đòi hỏi phải có sự hợp tác hiệu quả giữa nhà nước và thị trường (Stern và Stiglitz, 1997) cũng như việc xây dựng các định chế. Sự cộng tác của hai bên, nhà nước và thị trường, bao gồm một loạt các nghĩa vụ và trách nhiệm mỗi bên phải đảm nhận. Điều này đặc biệt phù hợp đối với các quốc gia đang phát triển với thị trường và các định chế còn kém phát triển. Mặc dù tại các nước đang phát triển phạm vi can thiệp của chính phủ có thể lớn hơn nhưng khả năng can thiệp của chính phủ lại có phần hạn chế. Sự phát triển đối tác như trên phải là một quá trình đồng bộ bởi vì những nhiệm vụ do chính phủ và thị trường đảm nhiệm bổ sung cho nhau, và chỉ cần một trục trặc nhỏ nhất của một trong hai bên cũng sẽ gây khó khăn về mặt chất lượng và hiệu quả của toàn bộ hệ thống. Đây là cốt lõi của “lý thuyết vòng đệm tròn về phát triển kinh tế” (Hộp 3.4). Mục tiêu của đối tác là nhằm tạo ra nền kinh tế thị trường vận hành tốt. Thật vậy, đó chính là ý nghĩa của “nền kinh tế có tính cạnh tranh”, và là những gì mà các định nghĩa ở phần trước về tính cạnh tranh quốc gia thể hiện. Do vậy, mặc dù “khả năng cạnh tranh quốc gia” vẫn còn là một khái niệm rất khó xác định, đặc biệt trong bối cảnh cụ thể về xuất nhập khẩu, nhưng nó vẫn có thể được sử dụng như là một cách viết tắt thay cho nền kinh tế thị trường vận hành tốt, và điều này làm cho thuật ngữ trên trở thành một khái niệm hữu ích khi tranh luận về chính sách và các mục đích phát triển khác. Định nghĩa nền kinh tế (có khả năng) cạnh tranh là một nền kinh tế thị trường vận hành tốt chưa được phân tích thực nghiệm, và chưa được thể hiện theo các chỉ số có thể đo lường được hoặc chỉ số tổng hợp (composite index). Và nó chẳng có liên quan gì với đến tính tranh đua và khả năng cạnh tranh trong định nghĩa về khả năng cạnh tranh ở cấp độ công ty. Tuy nhiên, khái niệm nền kinh tế thị trường vận hành tốt thể hiện mục đích của quốc gia một cách tinh tế, và việc có khả năng cạnh tranh không phải là một trạng thái mà là một quá trình. Đây là khuôn khổ phân tích tổng quát được sử dụng ở đây. Câu hỏi đặt ra là kết hợp nào là thích hợp giữa thị trường và nhà nước và đối tác này vận hành như thế nào? Mục tiêu của phát triển không chỉ bao gồm tăng GDP đầu người, mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống, tức giảm nghèo, đẩy mạnh y tế và giáo dục, duy trì môi trường sạch, tạo ra lực lượng lao động có tay nghề, v.v. Đây là chìa khóa để bảo đảm sự tăng trưởng nhanh và dài hạn của sản lượng, mà yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với sản lượng là sự tăng trưởng nhanh về năng suất. Do vậy, cần phải hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất, và đây chính là cách thức tiến hành so sánh và xếp hạng quốc tế. Ý nghĩa của nó là khi nền kinh tế phát triển thì nền kinh tế sẽ tiến theo hướng bắt kịp với đường giới hạn về công nghệ. Ngày nay, nhiều người đồng ý rằng khu vực tư nhân và các biện pháp ưu đãi có hiệu quả hơn chính phủ (Easterly 2001). Do vậy, tiền đề đầu tiên là việc sản xuất và phân bổ hàng hóa và dịch vụ tư cần phải để cho thị trường thực hiện, trong khi đó chính phủ Asian Development Outlook 2003 1 Biên dịch: Nguyễn Hoàng Phương Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển II Các định chế, nhà nước và thị trường: Niên khoá 2005-2006 Bài đọc đối tác cho phát triển thực hiện vai trò then chốt trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng về mặt định chế. Hơn nữa, bản thân thị trường không nhất thiết sẽ tạo ra những kết quả mà xã hội mong muốn (Stiglitz 2002). Vì những khiếm khuyết thị trường phổ biến hơn tại các nước đang phát triển so với các nước công nghiệp nên chính phủ các nước đang phát triển có vai trò quan trọng và có thể, rất có khả năng, cải thiện kết quả bằng những hành động can thiệp có lựa chọn kỹ càng. Cuối cùng, rất cần một bên thứ ba để có một nền kinh tế thị trường vận hành tốt – đó là các định chế thích hợp. Như đã trình bày ở trên, cơ sở hạ tầng định chế tổng quát tác động đến sự phát triển về khả năng của doanh nghiệp (xem phần phụ Cải thiện khả năng công nghệ và doanh nghiệp, ở phần trước). Tương tự, kết quả hoạt động của doanh nghiệp góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường vận hành tốt bởi vì sự phát triển về khả năng công nghệ và doanh nghiệp là một nguồn tạo ra năng suất ở cấp độ doanh nghiệp, và năng suất này là nền tảng cho năng suất quốc gia và sự tăng trưởng dài hạn. Phần dưới đây bàn về vai trò cụ thể các của định chế và chính phủ để đạt được điều đó. Hộp 3.4 Lý thuyết vòng đệm tròn về phát triển kinh tế Tại sao sự khác biệt về tiền lương và năng suất giữa các nước công nghiệp và đang phát triển lại quá lớn như vậy? Vòng đệm tròn chính là vòng đệm cao su hình bánh sừng trâu. Sự trục trặc của một vòng đệm như vậy làm cho tàu con thoi không gian Challenger nổ tung vào năm 1986. Tàu con thoi tốn kém hàng tỉ đô-la, đòi hỏi sự hợp tác của hàng trăm ê-kíp khác nhau, và kết hợp một số lượng rất lớn các bộ phận. Tất cả nỗ lực phối hợp này trở nên vô ích chỉ vì một vòng đệm không thực hiện đúng chức năng của mình. Năm 1993, nhà kinh tế học Michael Kremer ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kinh tế Fulbright - Các định chế, nhà nước và thị trường: đối tác cho phát triển Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển II Các định chế, nhà nước và thị trường: Niên khoá 2005-2006 Bài đọc đối tác cho phát triển CÁC ĐỊNH CHẾ, NHÀ NƯỚC, VÀ THỊ TRƯỜNG: ĐỐI TÁC CHO PHÁT TRIỂN Các doanh nghiệp không hoạt động trong môi trường chân không; họ không thể hoạt động thành công hoặc có khả năng cạnh tranh khi thiếu các định chế thích hợp, khi vai trò của chính phủ không được xác định rõ ràng, và khi môi trường đầu tư không đầy đủ. Hình 3.2 ở phần trước cho thấy rằng cơ sở hạ tầng tổng thể - chủ yếu do chính phủ cung cấp - tác động đến cách thức doanh nghiệp phát triển khả năng công nghệ và quản lý doanh nghiệp. Do vậy, một chiến lược phát triển đòi hỏi phải có sự hợp tác hiệu quả giữa nhà nước và thị trường (Stern và Stiglitz, 1997) cũng như việc xây dựng các định chế. Sự cộng tác của hai bên, nhà nước và thị trường, bao gồm một loạt các nghĩa vụ và trách nhiệm mỗi bên phải đảm nhận. Điều này đặc biệt phù hợp đối với các quốc gia đang phát triển với thị trường và các định chế còn kém phát triển. Mặc dù tại các nước đang phát triển phạm vi can thiệp của chính phủ có thể lớn hơn nhưng khả năng can thiệp của chính phủ lại có phần hạn chế. Sự phát triển đối tác như trên phải là một quá trình đồng bộ bởi vì những nhiệm vụ do chính phủ và thị trường đảm nhiệm bổ sung cho nhau, và chỉ cần một trục trặc nhỏ nhất của một trong hai bên cũng sẽ gây khó khăn về mặt chất lượng và hiệu quả của toàn bộ hệ thống. Đây là cốt lõi của “lý thuyết vòng đệm tròn về phát triển kinh tế” (Hộp 3.4). Mục tiêu của đối tác là nhằm tạo ra nền kinh tế thị trường vận hành tốt. Thật vậy, đó chính là ý nghĩa của “nền kinh tế có tính cạnh tranh”, và là những gì mà các định nghĩa ở phần trước về tính cạnh tranh quốc gia thể hiện. Do vậy, mặc dù “khả năng cạnh tranh quốc gia” vẫn còn là một khái niệm rất khó xác định, đặc biệt trong bối cảnh cụ thể về xuất nhập khẩu, nhưng nó vẫn có thể được sử dụng như là một cách viết tắt thay cho nền kinh tế thị trường vận hành tốt, và điều này làm cho thuật ngữ trên trở thành một khái niệm hữu ích khi tranh luận về chính sách và các mục đích phát triển khác. Định nghĩa nền kinh tế (có khả năng) cạnh tranh là một nền kinh tế thị trường vận hành tốt chưa được phân tích thực nghiệm, và chưa được thể hiện theo các chỉ số có thể đo lường được hoặc chỉ số tổng hợp (composite index). Và nó chẳng có liên quan gì với đến tính tranh đua và khả năng cạnh tranh trong định nghĩa về khả năng cạnh tranh ở cấp độ công ty. Tuy nhiên, khái niệm nền kinh tế thị trường vận hành tốt thể hiện mục đích của quốc gia một cách tinh tế, và việc có khả năng cạnh tranh không phải là một trạng thái mà là một quá trình. Đây là khuôn khổ phân tích tổng quát được sử dụng ở đây. Câu hỏi đặt ra là kết hợp nào là thích hợp giữa thị trường và nhà nước và đối tác này vận hành như thế nào? Mục tiêu của phát triển không chỉ bao gồm tăng GDP đầu người, mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống, tức giảm nghèo, đẩy mạnh y tế và giáo dục, duy trì môi trường sạch, tạo ra lực lượng lao động có tay nghề, v.v. Đây là chìa khóa để bảo đảm sự tăng trưởng nhanh và dài hạn của sản lượng, mà yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với sản lượng là sự tăng trưởng nhanh về năng suất. Do vậy, cần phải hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất, và đây chính là cách thức tiến hành so sánh và xếp hạng quốc tế. Ý nghĩa của nó là khi nền kinh tế phát triển thì nền kinh tế sẽ tiến theo hướng bắt kịp với đường giới hạn về công nghệ. Ngày nay, nhiều người đồng ý rằng khu vực tư nhân và các biện pháp ưu đãi có hiệu quả hơn chính phủ (Easterly 2001). Do vậy, tiền đề đầu tiên là việc sản xuất và phân bổ hàng hóa và dịch vụ tư cần phải để cho thị trường thực hiện, trong khi đó chính phủ Asian Development Outlook 2003 1 Biên dịch: Nguyễn Hoàng Phương Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Kinh tế phát triển II Các định chế, nhà nước và thị trường: Niên khoá 2005-2006 Bài đọc đối tác cho phát triển thực hiện vai trò then chốt trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng về mặt định chế. Hơn nữa, bản thân thị trường không nhất thiết sẽ tạo ra những kết quả mà xã hội mong muốn (Stiglitz 2002). Vì những khiếm khuyết thị trường phổ biến hơn tại các nước đang phát triển so với các nước công nghiệp nên chính phủ các nước đang phát triển có vai trò quan trọng và có thể, rất có khả năng, cải thiện kết quả bằng những hành động can thiệp có lựa chọn kỹ càng. Cuối cùng, rất cần một bên thứ ba để có một nền kinh tế thị trường vận hành tốt – đó là các định chế thích hợp. Như đã trình bày ở trên, cơ sở hạ tầng định chế tổng quát tác động đến sự phát triển về khả năng của doanh nghiệp (xem phần phụ Cải thiện khả năng công nghệ và doanh nghiệp, ở phần trước). Tương tự, kết quả hoạt động của doanh nghiệp góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường vận hành tốt bởi vì sự phát triển về khả năng công nghệ và doanh nghiệp là một nguồn tạo ra năng suất ở cấp độ doanh nghiệp, và năng suất này là nền tảng cho năng suất quốc gia và sự tăng trưởng dài hạn. Phần dưới đây bàn về vai trò cụ thể các của định chế và chính phủ để đạt được điều đó. Hộp 3.4 Lý thuyết vòng đệm tròn về phát triển kinh tế Tại sao sự khác biệt về tiền lương và năng suất giữa các nước công nghiệp và đang phát triển lại quá lớn như vậy? Vòng đệm tròn chính là vòng đệm cao su hình bánh sừng trâu. Sự trục trặc của một vòng đệm như vậy làm cho tàu con thoi không gian Challenger nổ tung vào năm 1986. Tàu con thoi tốn kém hàng tỉ đô-la, đòi hỏi sự hợp tác của hàng trăm ê-kíp khác nhau, và kết hợp một số lượng rất lớn các bộ phận. Tất cả nỗ lực phối hợp này trở nên vô ích chỉ vì một vòng đệm không thực hiện đúng chức năng của mình. Năm 1993, nhà kinh tế học Michael Kremer ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Kinh tế Fulbright giáo trình kinh tế bài giảng kinh tế tài liệu kinh tế kinh tế họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 579 0 0 -
Giáo trình phân tích một số loại nghiệp vụ mới trong kinh doanh ngân hàng quản lý ngân quỹ p5
7 trang 470 0 0 -
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 330 0 0 -
Giáo trình Kinh tế học vi mô cơ bản (Tái bản lần 1): Phần 1
72 trang 234 0 0 -
Giáo trình Nguyên lý kinh tế học vi mô: Phần 1 - TS. Vũ Kim Dung
126 trang 231 6 0 -
Trọng dụng nhân tài: Quyết làm và biết làm
3 trang 216 0 0 -
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TIỀN TỆ, TÍN DỤNG
68 trang 169 0 0 -
Bài giảng Kinh tế học vi mô - Lê Khương Ninh
45 trang 156 0 0 -
Tuyển Các bài Tập Nguyên lý Kế toán
64 trang 155 0 0 -
13 trang 152 0 0